Bầm là tiếng gọi mẹ của địa phương nào năm 2024

Đố bạn biết từ nào mà khi bỏ chữ cái đầu, ta vẫn được một từ mang nghĩa "mẹ".

Tiếng Việt của chúng ta có kho tàng từ vựng vô cùng phong phú, đa dạng ở từng vùng miền, địa phương. Cùng chỉ một thứ nhưng vùng miền này lại có cách gọi khác với vùng miền kia. Chẳng hạn như miền Bắc gọi "quả roi", miền Nam gọi "quả mận", một số nơi gọi là "bát ô tô", nhưng một số nơi gọi là "bát to",...

"Lợi dụng" sự đa dạng từ vựng này mà nhiều câu đố chữ hóm hỉnh đã ra đời. Chẳng hạn như câu đố sau: "Để nguyên là mẹ, bỏ đầu vẫn là mẹ", là từ gì?

Chỉ cần suy nghĩ một chút, bạn sẽ đoán ra ngay hai từ được nhắc đến trong câu đố này là gì, bởi đó là 2 từ rất quen thuộc. Đó chính là "bu" và "u".

"Bu" là cách gọi "mẹ" ở một số địa phương miền Bắc như Thái Bình,... Do biến âm nên còn có các cách gọi khác như "bầm" [Bắc Ninh] hay "u" [Hà Nam]. Theo một số tài liệu, từ "bu" có thể xuất phát từ từ 母親 [búchhin] - một từ tiếng địa phương vùng phía Nam Trung Quốc - Phúc Kiến.

Theo Từ điển Tiếng Việt, từ "mẹ" có nguồn gốc từ âm "mère" trong tiếng Pháp, dùng để chỉ người phụ nữ có công sinh thành và nuôi nấng chúng ta. Tại nhiều ngôn ngữ trên thế giới, từ để gọi mẹ đều bắt đầu bằng âm m như mère, maman [tiếng Pháp], mother, mom [tiếng Anh]… Theo các nhà ngôn ngữ học, âm "m", "b" là âm môi, dễ đọc, dễ nhớ, chỉ cần mở môi là phát âm được. Đối với trẻ em, âm "m" rất dễ khi mới tập nói. Do đó, các từ để gọi những người thân, gần gũi với mỗi người như "bà", "bố" và "mẹ" đều bắt đầu bằng hai âm này.

Tiếng Việt ngày nay có nhiều cách gọi mẹ. Ngoài "bu", "u", "bầm" và "me" - cách gọi hiện đại được nhắc bên trên, ta còn có nhiều cách gọi khác như "má" [miền Nam], "mạ" [miền Trung],... Trước đó thời phong kiến, các gia đình quý tộc thường dùng từ "mẫu thân" để chỉ người mẹ đẻ. Được biết, đây là một từ phiên âm trực tiếp từ tiếng Trung Quốc là母親 với phát âm là "mǔqīn". Đây là phát âm chính thống, còn "búchhin" nhắc đến bên trên là tiếng địa phương.

Mẹ là người quan trọng, thân yêu, gần gũi nhất với mỗi con người. Trong tiếng Việt, có rất nhiều từ khác nhau cùng để gọi mẹ.

Theo Từ điển Tiếng Việt của NXB Khoa học Xã hội năm 1994, từ mẹ được biến âm trực tiếp từ mère trong tiếng Pháp, nghĩa là người phụ nữ có công sinh thành và nuôi nấng chúng ta. Tại nhiều ngôn ngữ trên thế giới, từ để gọi mẹ đều bắt đầu bằng âm m như mère, maman [tiếng Pháp], mother, mom [tiếng Anh], мать [tiếng Nga]...

Giải thích điều này, các nhà ngôn ngữ cho rằng, âm m, b là âm môi, dễ đọc, dễ nhớ, chỉ cần mở môi là phát âm được. Đối với trẻ em, âm m rất dễ khi mới bập bẹ nói. Chính vì vậy, các từ để gọi những người thân, gần gũi với mỗi người như bà, bố, và mẹ đều bắt đầu bằng hai âm này.

Trong tiếng Việt cổ, từ cái và từ nạ được dùng với nghĩa từ mẹ hiện nay. Những cách gọi này được ghi lại trong kho tàng ca dao Việt Nam: “Con dại cái mang”, “Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” hay “Con có nạ như thiên hạ có vua”, “Quen việc nhà nạ lạ việc nhà chồng”.

Có nhiều gia đình ở miền Bắc lại gọi mẹ là đẻ, tức là người sinh ra mình, mặc dù cách gọi này hiện giờ hầu như không còn.

Những từ này rất thiêng liêng, không chỉ mang nghĩa gọi người sinh thành ra chúng ta, mà còn có ý nghĩa lịch sử.

Trong thời phong kiến, các gia đình quý tộc thường dùng từ mẫu thân. Còn các gia đình thường dân lại dùng từ bu. Đến tận bây giờ, từ bu vẫn được dùng ở một số địa phương như Thái Bình, hoặc chuyển sang từ có âm tương tự như bầm [ở Bắc Ninh], u [ở Hà Nam]. Cũng trong thời kỳ tồn tại chế độ đa thê này, người con ruột gọi mẹ mình bằng chị, gọi bà vợ chính của cha mình bằng mẹ.

Tùy vùng miền và thời điểm, từ mẹ được gọi bằng các cách khác nhau. Trước năm 1975, người Hà Nội dùng từ mợ. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng dùng từ bầm, ầm, u. Người Huế dùng từ mạ, chị cả.

Những gia đình sinh con khó nuôi, ở Miền Bắc và Miền Trung thường gọi mẹ là mợ, thím, mạ để tránh bị ma quỷ bắt đi. Cũng trong thời điểm này, nhiều người còn gọi me [do chữ Mère của tiếng Pháp mà ra] hoặc là măng [từ chữ Maman của tiếng Pháp].

Các từ này đã đi vào văn thơ Việt Nam để chỉ sự thân thiết, gần gũi của người có công dưỡng dục ra mỗi người, như: “Bầm ơi có rét không bầm/ Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn” [Tố Hữu].

Hiện nay, phần lớn các vùng miền Bắc dùng từ mẹ, trong khi miền Trung dùng từ mạ, còn miền Nam dùng từ má. Ngoài ra, biến âm của mạ còn có mệ, các cách gọi này thường dùng ở những địa phương Thanh – Nghệ - Tĩnh và Huế.

Dù bằng cách gọi nào, đây cũng đều là các từ thân thương, gần gũi, nhưng cũng rất đỗi tình cảm và thiêng liêng để dành gọi người quan trọng nhất cuộc đời mỗi con người.

Khi con cái lập gia đình riêng và có cháu, từ mẹ chuyển thành bà. Với ý nghĩa gọi thay cho con, từ bà vừa thể hiện độ tuổi của mẹ, vừa chỉ vai vế trong gia đình, đồng thời thể hiện sự tôn kính dành cho mẹ. Ngoài ra, một số người có thể dùng từ bà cụ, như bà cụ nhà tôi, cũng thể hiện sự gần gũi, đồng thời định rõ độ tuổi của mẹ.

Ngày của Mẹ tôn vinh người mẹ, tình mẹ, và ảnh hưởng của các bà mẹ trong xã hội. Lễ này được kỷ niệm vào các ngày khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới, phổ biến nhất là trong mùa xuân. Đa số tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5. Vào ngày này, các con thường tặng hoa cẩm chướng và viết thiệp tặng mẹ.

Bài viết được tổng hợp dựa trên nguồn tham khảo:

- Từ điển Tiếng Việt của NXB Khoa học Xã hội năm 1994.

- Từ điển Hán Việt, tác giả Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã Hội.

- Tiểu luận Phê bình về phong tục, Lại Nguyên Ân.

- Đại từ điển Tiếng Việt, NXB ĐHQG TP HCM.

- Từ điển Thanh Nghị, tác giả Khai Trí, xuất bản tháng 1/1968.

Nick Pat - Ngân Giang

ngày của mẹ Ngân Giang ngày của mẹ 8/5 ngày của mẹ ở Việt Nam cách gọi mẹ gọi mẹ theo địa phương

Chủ Đề