Cách chữa bạch cầu trong nước tiểu

[Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI] Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI] Nhiễm trùng đường tiết niệu [UTIs] có thể được chia thành nhiễm trùng đường tiết niệu cao, bao gồm thận [viêm thận bể thận], và nhiễm trùng đường tiết niệu thấp, có liên quan đến bàng quang... đọc thêm . Xem thêm Trực khuẩn Gram âm Trực khuẩn Gram âm đọc thêm ; xem Viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt có liên quan đến một nhóm các rối loạn khác nhau biểu hiện bởi sự kết hợp của các triệu chứng kích thích hoặc triệu chứng tắc nghẽn và đau vùng đáy chậu. Một số trường hợp... đọc thêm ; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] được xác định bởi 5 × 104 các khuẩn lạc / mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với 105 khuẩn lạc / mL. Ở trẻ nhỏ, NKTN... đọc thêm .]

Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường tiết niệu có thể liên quan đến niệu đạo, tuyến tiền liệt, bàng quang hoặc thận. Triệu chứng có thể không có hoặc bao gồm: tiểu nhiều lần, tiểu gấp, tiểu buốt, đau bụng dưới, và đau vùng hông lưng. Các triệu chứng toàn thân và thậm chí là nhiễm trùng huyết có thể xảy ra nếu có nhiễm trùng thận. Chẩn đoán dựa trên phân tích và nuôi cấy nước tiểu. Điều trị bằng kháng sinh, loại bỏ ống thông và tắc nghẽn hệ thống tiết niệu.

Trong số những bệnh nhân từ 20 đến 50 tuổi, UTIs ở phụ nữ thường gặp hơn gấp khoảng 50 lần. Ở phụ nữ trong nhóm tuổi này, hầu hết các UTIs là viêm bàng quang Viêm bàng quang [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm hoặc là viêm thận bể thận Viêm thận bể thận cấp tính [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm . Ở nam giới cùng độ tuổi, hầu hết UTI là viêm niệu đạo Viêm niệu đạo [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm hoặc là viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt Viêm tuyến tiền liệt có liên quan đến một nhóm các rối loạn khác nhau biểu hiện bởi sự kết hợp của các triệu chứng kích thích hoặc triệu chứng tắc nghẽn và đau vùng đáy chậu. Một số trường hợp... đọc thêm . Tỉ lệ UTI tăng ở bệnh nhân > 50 tuổi, nhưng tỷ lệ mắc giữa nam và nữ giảm bởi vì tần suất phì đại tuyến tiền liệt tăng lên và cần phải can thiệp đặt dụng cụ vào đường tiết niệu ở nam giới.

Sinh lý bệnh

Đường tiết niệu, từ thận đến lỗ miệng sáo, bình thường là vô trùng và đề kháng với vi khuẩn chí mặc dù thường xuyên bị bội nhiễm từ phần niệu đạo ngoài với vi khuẩn đại trực tràng. Cơ chế bảo vệ chủ yếu chống lại UTI là để bàng quang hoàn toàn rỗng trong khi đi tiểu. Các cơ chế khác để duy trì sự vô khuẩn của đường bao gồm tính acid của nước tiểu, van chống trào ngược bàng quang niệu quản, và các rào cản miễn dịch và hàng rào niêm mạc khác nhau.

Khoảng 95% UTI xuất hiện khi vi khuẩn lên niệu đạo vào bàng quang, và trong trường hợp viêm thận bể thận, vi khuẩn đi từ niệu quản lên thận. Phần còn lại của UTIs là vi khuẩn đi theo đường máu. Nhiễm trùng toàn thân có thể là hậu quả của UTI, đặc biệt ở người cao tuổi. Khoảng 6,5% trường hợp nhập viện nhiễm khuẩn huyết Nhiễm khuẩn huyết [Xem Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh; xem Vãng khuẩn huyết ẩn và sốt không rõ căn nguyên ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ.] Nhiễm khuẩn huyết là sự hiện diện của vi khuẩn trong máu. Nó có thể xảy ra tự phát... đọc thêm là do UTI.

Nhiễm trùng tiết niệu không phức tạp thường được coi là bệnh viêm bàng quang hay viêm thận bể thận ở những phụ nữ tiền mãn kinh mà không có bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của đường tiểu và những người không mang thai và không có triệu chứng đáng kể nào có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, một số chuyên gia cho rằng UTIs không biến chứng ngay cả khi chúng ảnh hưởng đến phụ nữ sau mãn kinh hoặc bệnh nhân tiểu đường được kiểm soát tốt. Ở nam giới, hầu hết UTIs xảy ra ở trẻ em hoặc người cao tuổi, là do bất thường giải phẫu hoặc do can thiệp dụng cụ vào đường niệu, và được coi là phức tạp, có biến chứng.

Các UTI hiếm xảy ra ở nam giới từ 15 đến 50 tuổi, thường ở nam giới có quan hệ tình dục không an toàn qua đường hậu môn, hoặc ở những người có dương vật không được cắt bao quy đầu, và chúng thường được xem là không biến chứng. Nhiễm trùng tiết niệu ở nam giới độ tuổi từ 15 đến 50 thường gặp trên các đối tượng quan hệ tình dục qua đường hậu môn không an toàn, hoặc đã cắt bao quy đầu. Đây thường được coi là các nhiễm trùng tiết niệu không phức tạp. Trên các đối tượng nam giới ở độ tuổi này nhưng có quan hệ tình dục đường hậu môn an toàn và chưa cắt bao quy đầu là rất hiếm gặp, thường được coi là nhiễm trùng tiết niệu phức tạp và cần phải đánh giá các bất thường về đường tiết niệu.

Nhiễm trùng tiết niệu phức tạp có thể liên quan đến giới tính ở mọi lứa tuổi. Nó thường được coi là viêm thận bể thận hay viêm bàng quang không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí được xem là không phức tạp. Nhiễm trùng tiết niệu được coi là phức tạp nếu bệnh nhân là trẻ em, hoặc đang mang thai, hoặc có bất cứ điều nào sau đây:

  • Bất thường về cấu trúc hoặc chức năng của hệ tiết niệu và tắc nghẽn dòng nước tiểu

  • Một bệnh kèm theo làm tăng nguy cơ nhiễm trùng hoặc kháng điều trị, chẳng hạn như tiểu đường kiểm soát kém, bệnh thận mãn tính, hoặc suy giảm miễn dịch.

  • Có can thiệp thủ thuật đặt dụng cụ vào đường tiểu hoặc phẫu thuật đường tiết niệu gần đây

Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ tiến triển nhiễm trùng tiết niệu ở phụ nữ bao gồm:

  • Quan hệ tình dục

  • Sử dụng màng ngăn âm đạo và chất diệt tinh trùng

  • Sử dụng kháng sinh

  • Bạn tình mới

  • Tiền sử có mẹ, chị, em ruột mắc nhiễm trùng đường niệu

  • Tiền sử nhiễm trùng đường niệu tái phát

  • UTI lần đầu ở người trẻ

Ngay cả việc sử dụng bao cao su có chứa chất diệt tinh trùng làm tăng nguy cơ UTI ở phụ nữ. Nguy cơ gia tăng UTI ở phụ nữ sử dụng kháng sinh hoặc chất diệt tinh trùng có thể xảy ra do sự huỷ hoại hệ vi khuẩn chí bình thường ở âm đạo, cho phép phát triển quá mức Escherichia coli. Ở phụ nữ lớn tuổi, tình trạng đại tiện không tự chủ làm vùng tầng sinh môn thường xuyên bị nhiểm bẩn và tăng nguy cơ UTI.

Các bất thường về giải phẫu, cấu trúc và chức năng của hệ tiết niệu là những yếu tố nguy cơ gây UTI. Hậu quả chung của bất thường giải phẫu là trào ngược bàng quang niệu quản trào ngược bàng quang niệu quản [VUR] [Xem thêm Tổng quan về các dị tật bẩm sinh niệu sinh dục.] Trào ngược bàng quang niệu quản là dòng nước tiểu đi ngược từ bàng quang lên niệu quản và đôi khi cũng vào bể thận, tùy thuộc vào mức... đọc thêm [VUR] ở 30-45% trẻ nhỏ có triệu chứng nhiễm trùng đường niệu Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] được xác định bởi 5 × 104 các khuẩn lạc / mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với 105 khuẩn lạc / mL. Ở trẻ nhỏ, NKTN... đọc thêm . VUR thường do khiếm khuyết bẩm sinh gây ra tình trạng mất chức năng của van chống trào ngược bàng quang niệu quản. VUR cũng có thể được quan sát thấy ở những bệnh nhân có bàng quang thần kinh do chấn thương tủy hoặc sau khi phẫu thuật đường tiết niệu. Các bất thường giải phẫu khác dẫn đến UTI bao gồm van niệu đạo sau [ bất thường tắc nghẽn bẩm sinh], chậm trưởng thành vùng cổ bàng quang, túi thừa bàng quang, và niệu đạo đôi.

Các bất thường về cấu trúc và chức năng dẫn đến UTI thường liên quan đến tắc nghẽn dòng nước tiểu và rỗng bàng quang kém. Dòng nước tiểu có thể bị ảnh hưởng bởi sỏi và khối u. Việc làm rỗng bàng quang có thể khó khăn do rối loạn chức năng thần kinh [xem Bàng quang thần kinh Bàng quang thần kinh Bàng quang thần kinh là tình trạng rối loạn chức năng bàng quang [mềm hoặc co cứng] do tổn thương thần kinh. Các triệu chứng có thể bao gồm tiểu không tự chủ khi bàng quang căng, tiểu nhiều... đọc thêm , mang thai, sa tử cung, sa bàng quang, và phì đại tuyến tiền liệt. UTI do các yếu tố bẩm sinh thường biểu hiện sớm trong thời thơ ấu. Hầu hết các yếu tố nguy cơ khác phổ biến hơn ở người cao tuổi.

Các yếu tố nguy cơ khác của UTI bao gồm việc sử dụng các dụng cụ can thiệp vào đường niệu [ví dụ:, đặt ống thông bàng quang Đặt ống thông bàng quang Thủ thuật đặt ống thông bàng quang thường được thực hiện trong những trường hợp sau: Lấy nước tiểu để làm xét nghiệm Đo lượng nước tiểu tồn dư Giải quyết tình trạng bí tiểu hoặc tiểu không tự... đọc thêm , đặt stent niệu đạo, soi bàng quang Soi bàng quang Soi bàng quang là đưa ống soi sợi quang cứng hoặc mềm vào trong bàng quang. Các chỉ định soi bàng quang gồm có: Chẩn đoán bệnh lý tiết niệu [ví dụ, u bàng quang, sỏi trong bàng quang, phì đại... đọc thêm ] và phẫu thuật.

Nguyên nhân

Các vi khuẩn thường gây viêm bàng quang và viêm thận bể thận là:

  • Vi khuẩn đường ruột, thường là vi khuẩn kỵ khí gram âm [thường gặp].

  • Vi khuẩn Gram dương [ít gặp hơn]

Trong đường sinh dục tiết niệu bình thường, chủng Escherichia coli có các yếu tố bám dính đặc hiệu với vùng biểu mô chuyển tiếp của bàng quang và niệu quản chiếm từ 75 đến 95% trường hợp. Các căn nguyên vi khuẩn gram âm đường ruột khác là Klebsiella hoặc là Proteus mirabilis, và đôi khi Pseudomonas aeruginosa. Trong số vi khuẩn Gram dương, Staphylococcus saprophyticus có liên quan từ 5 đến 10% loại vi khuẩn gây UTIs. Vi khuẩn gram dương ít phổ biến hơn là Enterococcus faecalis [liên cầu nhóm D] và Streptococcus agalactiae [liên cầu nhóm B], có thể bị bội nhiễm, đặc biệt nếu chúng được phân lập từ bệnh nhân viêm bàng quang không biến chứng.

Ở bệnh nhân nằm viện, E. coli chiếm khoảng 50% trường hợp. Các loài Gram âm Klebsiella, Proteus, Enterobacter, Pseudomonas, và Serratia chiếm khoảng 40%, và cầu khuẩn gram dương, E. faecalis, S. saprophyticus, và Staphylococcus aureus chiếm phần còn lại.

Phân loại

Viêm niệu đạo

Viêm niệu đạo do vi khuẩn [hoặc ký sinh trùng, vi rút, hoặc nấm] xảy ra khi các căn nguyên này nhân lên cấp tính hoặc mạn tính tại đoạn niệu đạo hành và niệu đạo dương vật của nam giới và toàn bộ niệu đạo của nữ giới. Các căn nguyên gây bệnh lây truyền qua đường tình dục như Chlamydia trachomatis [xem Nhiễm Chlamydia, Mycoplasmal, và Ureaplasmal Nhiễm Chlamydia, Mycoplasmal, và Ureaplasmal Viêm niệu đạo, viêm cổ tử cung, viêm trực tràng và viêm họng qua đường tình dục không phải do bệnh lậu được gây ra chủ yếu bởi chlamydiae và đôi khi gặp do mycoplasmas hoặc Ureaplasma sp. Chlamydiae... đọc thêm ], Neisseria gonorrhoeae [xem Bệnh lậu Bệnh lậu Bệnh lậu do vi khuẩn gây ra Neisseria gonorrhoeae. Nó thường nhiễm vào biểu mô của niệu đạo, cổ tử cung, trực tràng, hầu họng, hoặc kết mạc, gây kích ứng hoặc đau và xuất huyết rải rác. Khuếch... đọc thêm ], Trichomonas vaginalis [xem Trichomonas Trichomonas Trichomonas là nhiễm trùng âm đạo hoặc đường sinh dục nam Trichomonas vaginalis. Bệnh có thể không có triệu chứng hoặc gây ra viêm niệu đạo, viêm âm đạo, hoặc thỉnh thoảng viêm bọng, viêm màng... đọc thêm ], và vi rút herpes simplex Nhiễm virus Herpes simplex [HSV] Herpes simplex Herpes [herpesviruses loại 1 và 2] thường gây nhiễm trùng tái phát ảnh hưởng đến da, miệng, môi, mắt và bộ phận sinh dục. Các bệnh nhiễm trùng nặng thường gặp gồm viêm não, viêm... đọc thêm là nguyên nhân phổ biến ở cả hai giới.

Viêm bàng quang

Viêm bàng quang là tình trạng nhiễm trùng bàng quang. Viêm bàng quang hay gặp ở phụ nữ, thường khởi phát sau quan hệ tình dục [viêm bàng quang tuần trăng mật], đa số là nhẹ và ít biến chứng. Ở nam giới, viêm bàng quang thường diễn biến phức tạp hơn, do căn nguyên đi ngược lên từ niệu đạo, hoặc tiền liệt tuyến, hoặc thứ phát sau can thiệp đặt dụng cụ vào niệu đạo. Nguyên nhân phổ biến nhất của viêm bàng quang tái phát ở nam giới là viêm mạn tính tuyến tiền liệt

Hội chứng niệu đạo cấp

Hội chứng niệu đạo cấp tính, xảy ra ở phụ nữ, là một hội chứng liên quan đến tiểu buốt, tiểu nhiều lần, và tiểu mủ [hội chứng tiểu buốt-tiểu mủ], do đó triệu chứng tương tự viêm bàng quang. Tuy nhiên, trong hội chứng niệu đạo cấp tính [không giống như ở bệnh viêm bàng quang], nuôi cấy nước tiểu thường là âm tính hoặc biểu hiện số khuẩn lạc thấp hơn tiêu chuẩn kinh điển để chẩn đoán nhiễm khuẩn bàng quang. Nguyên nhân gây viêm niệu đạo có thể do Chlamydia trachomatis và Ureaplasma urealyticum, những loại vi khuẩn không thể phát hiện trên nuôi cấy nước tiểu thường quy.

Các nguyên nhân không nhiễm trùng đã được đề xuất, nhưng các bằng chứng khẳng định vẫn chưa được kết luận rõ ràng, và hầu hết các nguyên nhân không nhiễm trùng thường ít hoặc không có hiện tượng tiểu mủ. Các nguyên nhân không nhiễm trùng có thể bao gồm các bất thường về giải phẫu [ví dụ như hẹp niệu đạo], bất thường về sinh lý [ví dụ rối loạn chức năng cơ đáy chậu], mất cân bằng hoóc môn [ví dụ viêm niệu đạo teo], chấn thương cục bộ, triệu chứng của hệ thống đường ruột, và viêm.

Vi khuẩn niệu không triệu chứng

Vi khuẩn niệu không triệu chứng [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm là tình trạng không có triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể của UTI ở bệnh nhân, nhưng cấy nước tiểu có đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán UTI. Tiểu mủ có thể có hoặc không. Do không có triệu chứng, nên các vi khuẩn niệu được tìm thấy chủ yếu ở những bệnh nhân có nguy cơ cao được sàng lọc, hoặc khi nuôi cấy nước tiểu vì các lý do khác.

Sàng lọc bệnh nhân có vi khuẩn niệu không triệu chứng được chỉ định cho những người có nguy cơ biến chứng nếu không được điều trị. Những bệnh nhân này bao gồm

  • Phụ nữ mang thai từ 12 đến 16 tuần, hoặc nếu muộn hơn, vào lần khám thai đầu tiên [do nguy cơ UTI có triệu chứng, bao gồm viêm thận bể thận, trong khi mang thai Nhiễm trùng đường tiết niệu khi mang thai Nhiễm trùng đường tiết niệu [UTI] là phổ biến trong quá trình mang thai, rõ ràng là do ứ đọng nước tiểu, kết quả của sự giãn nở niệu quản do nội tiết tố, giảm nhu động niệu quản do nội tiết... đọc thêm ; và hậu quả bao gồm cả sơ sinh nhẹ cân và sinh non] [Xem phần US Preventive Services Task Force Reaffirmation Recommendation Statement.]

  • Bệnh nhân đã có ghép thận Ghép thận [Xem thêm Tổng quan về ghép tạng.] Ghép thận là loại ghép phổ biến nhất trong số các loại ghép tạng đặc. Chỉ định chính của ghép thận là Suy thận giai đoạn cuối Chống chỉ định tuyệt đối bao gồm đọc thêm trong vòng 6 tháng trước

  • Bệnh nhi trào ngược bàng quang niệu quản

  • Trước một số thủ thuật xâm lấn đường sinh dục tiết niệu có thể gây ra chảy máu niêm mạc [ví dụ, cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo]

Một số bệnh nhân [ví dụ như phụ nữ sau mãn kinh, bệnh nhân đái tháo đường kiểm soát tốt, bệnh nhân đang có dị vật như ống dẫn lưu thận qua da hay sonde tiểu] thường gặp nhiễm khuẩn đường tiết niệu không triệu chứng dai dẳng và đôi khi là tiểu mủ. Tuy nhiên, những bệnh nhân này không nên được sàng lọc, do nguy cơ thấp mắc UTI phức tạp do vi khuẩn niệu và không cần phải điều trị. Ngoài ra, ở những bệnh nhân có sonde tiểu, điều trị thường khó đạt được vi khuẩn niệu âm tính và gia tăng tỷ lệ kháng kháng sinh

Viêm thận bể thận cấp tính

Viêm thận bể thận là nhiễm khuẩn ở nhu mô thận. Thuật ngữ này không nên được sử dụng để mô tả bệnh ống kẽ thận trừ khi tình trạng nhiễm trùng được ghi nhận. Ở phụ nữ, khoảng 20% các trường hợp nhiễm khuẩn huyết Nhiễm khuẩn huyết [Xem Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh; xem Vãng khuẩn huyết ẩn và sốt không rõ căn nguyên ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ.] Nhiễm khuẩn huyết là sự hiện diện của vi khuẩn trong máu. Nó có thể xảy ra tự phát... đọc thêm mắc phải ở cộng đồng là do viêm thận bể thận. Viêm thận-bể thận là không phổ biến ở nam giới với một đường niệu bình thường.

Trong 95% trường hợp viêm thận bể thận, nguyên nhân là sự xâm nhập của vi khuẩn ngược dòng qua đường niệu. Mặc dù tắc nghẽn [ví dụ, hẹp, sỏi Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa vào xét nghiệm nước tiểu... đọc thêm , khối u, bàng quang thần kinh, trào ngược bàng quang niệu quản] dẫn đến viêm thận bể thận, nhưng hầu hết phụ nữ bị viêm thận bể thận không có khiếm khuyết về chức năng hoặc giải phẫu. Ở nam giới, viêm thận bể thận thường do một số khiếm khuyết chức năng hoặc giải phẫu. Bệnh viêm bàng quang đơn thuần hoặc các khiếm khuyết giải phẫu có thể gây ra trào ngược. Nguy cơ ngược dòng của vi khuẩn sẽ tăng lên đáng kể khi có giảm nhu động niệu quản [ví dụ như trong thời gian mang thai, tắc nghẽn, hay do độc tố vi khuẩn gram âm]. Bệnh viêm thận bể thận phổ biến ở trẻ em gái, phụ nữ mang thai sau khi đặt sonde bàng quang.

Viêm thận bể thận nếu không do vi khuẩn ngược dòng đường niệu, thì thường là qua đường máu, đặc biệt là các vi khuẩn có độc tố như S. aureus, P. aeruginosa, Salmonella, và Candida.

Thận thường tăng kích thước vì bạch cầu đa nhân trung tính gây viêm và phù nề. Tình trạng nhiễm khuẩn là khu trú và không liên tục, bắt đầu từ vùng chậu đi lên tuỷ thận sau đó lan vào vùng vỏ thận tạo hình ảnh tổn thương hình chêm. Các tế bào viêm xuất hiện trong vòng vài ngày, và vùng tủy và vùng dưới vỏ của thận có thể hình thành các ổ áp xe. Thường là vùng nhu mô bình thường của thận nằm xen giữa các ổ nhiễm trùng.

Hoại tử nhú thận có thể là bằng chứng của viêm thận bể thận cấp liên quan đến bệnh đái tháo đường, tắc nghẽn, bệnh hồng cầu hình liềm, viêm thận bể thận ở những bệnh nhân ghép thận, viêm thận bể thận do nấm candida, hoặc bệnh thận do thuốc giảm đau.

Mặc dù viêm thận bể thận cấp thường liên quan đến vết sẹo thận ở trẻ em, nhưng sẹo ở người lớn không thể phát hiện được khi không có trào ngược hoặc tắc nghẽn.

Triệu chứng cơ năng và thực thể

Bệnh nhân lớn tuổi và bệnh nhân bị bàng quang thần kinh hoặc phải đặt lưu thông tiểu có thể có các biểu hiện của nhiễm trùng huyết và mê sảng mà không có các triệu chứng của đường tiết niệu.

Khi có triệu chứng, chúng có thể không tương quan với vị trí nhiễm khuẩn của đường niệu vì có sự chồng lấp các triệu chứng; tuy nhiên, có một cái nhìn tổng thể là rất hữu ích.

Trong viêm niệu đạo, các triệu chứng chính là tiểu buốt, chảy dịch niệu đạo, và thường gặp chủ yếu ở nam giới. Chất dịch tiết đó có thể là mủ, dịch trắng, hoặc dịch nhầy. Dịch tiết có đặc điểm như dịch mủ không có sự khác biệt giữa nguyên nhân gây viêm niệu đạo do lậu và không do lậu .

Viêm bàng quang khởi phát thường là đột ngột, điển hình là tiểu nhiều lần, tiểu gấp, và nóng rát hoặc đau khi đi tiểu với một lượng nước tiểu rất ít. Chứng tiểu đêm, đau trên xương mu và đau thắt lưng thường rất phổ biến. Nước tiểu thường đục, và đái máu vi thể [hiếm khi đái máu đại thể] có thể xảy ra. Sốt nhẹ có thể có. Tiểu hơi [tiểu có bọt khí trong nước tiểu] có thể xảy ra khi có nhiễm trùng do dò bàng quang-ruột hoặc dò bàng quang-âm đạo hoặc viêm bàng quang do vi khuẩn sinh hơi.

Trong viêm thận bể thận cấp, các triệu chứng có thể giống như những triệu chứng của viêm bàng quang. 1/3 số bệnh nhân có tiểu dắt và tiểu nhiều lần. Tuy nhiên, với viêm thận bể thận, các triệu chứng thường bao gồm rét run, sốt, đau vùng hông lưng, đau quặn bụng, buồn nôn, và nôn. Nếu bụng mềm,hoặc thành bụng mỏng thỉnh thoảng có thể sờ thấy thận to và đau khi chạm. Vỗ hông lưng dương tính thường xuất hiện ở phía bên bị bệnh. Trong nhiễm trùng đường tiểu ở trẻ em Triệu chứng và Dấu hiệu Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] được xác định bởi 5 × 104 các khuẩn lạc / mL trong mẫu nước tiểu đã được thông báo hoặc, ở trẻ lớn hơn, bằng mẫu lặp lại với 105 khuẩn lạc / mL. Ở trẻ nhỏ, NKTN... đọc thêm , các triệu chứng thường ít và không điển hình.

Chẩn đoán

  • Xét nghiệm nước tiểu

  • Đôi khi cấy nước tiểu

Chẩn đoán bằng nuôi cấy không phải lúc nào cũng cần thiết. Nếu được thực hiện, chẩn đoán bằng nuôi cấy đòi hỏi phải có biểu hiện vi khuẩn niệu đáng kể trong mẫu nước tiểu được lấy đúng cách.

Cách lấy mẫu nước tiểu

Nếu nghi ngờ bệnh lây truyền qua đường tình dục [STD], cần lấy phiến đồ dịch niệu đạo trước khi đi tiểu. Sau đó lấy mẫu nước tiểu sạch hoặc lấy qua ống thông tiểu.

Để có được một mẫu nước tiểu sạch, lấy mẫu nước tiểu giữa dòng, lỗ niệu đạo ngoài được rửa bằng nước tẩy rửa nhẹ hoặc xà phòng nhẹ không có tác dụng sát khuẩn, sau đó lau khô. Việc tiếp xúc giữa dòng nước tiểu với niêm mạc nên được giảm thiểu bằng cách mở rộng môi lớn ở nữ giới và kéo ra phía sau lớp da bao quy đầu ở nam giới. 5 mL nước tiểu đầu tiên không lấy; 5-10 ml tiếp theo được thu thập trong một lọ bệnh phẩm vô khuẩn.

Mẫu nước tiểu lấy qua sonde tiểu được ưu tiên lựa chọn hơn ở phụ nữ lớn tuổi [thường gặp khó khăn trong việc lấy mẫu nước tiểu sạch] và ở phụ nữ bị hành kinh hoặc ra khí hư âm đạo. Nhiều bác sĩ lâm sàng cũng sử dụng ống thông tiểu để lấy mẫu xét nghiệm nếu việc đánh giá bao gồm cả thăm khám vùng chậu. Chẩn đoán bệnh ở các bệnh nhân có ống sonde lưu lâu dài được thảo luận ở một chương khác [xem Chẩn đoán Chẩn đoán UTI liên quan đến ống thông [CAUTI] là tình trạng UTI với kết quả cấy dương tính khi một ống thông dẫn lưu nước tiểu được đặt > 2 ngày. Bệnh nhân có ống thông bàng quang lưu thường dễ bị nhiễm... đọc thêm ].

Nên tiến hành xét nghiệm, đặc biệt là nuôi cấy, trong vòng 2 giờ kể từ khi lấy mẫu; nếu không, mẫu phải được bảo quản lạnh.

Xét nghiệm nước tiểu

Xét nghiệm vi thể bằng kính hiển vi là hữu ích nhưng không có tính chẩn đoán xác định. Tiểu mủ được định nghĩa là 8 tế bào bạch cầu [WBCs] /μL với mẫu nước tiểu không li tâm, tương ứng với 2 đến 5 WBCs / vi trường với mẫu cặn nước tiểu. Hầu hết những bệnh nhân nhiễm trùng thực sự sẽ có > 10 WBCs /μL. Sự hiện diện của vi khuẩn trong khi không có tiểu mủ, đặc biệt là khi có nhiều chủng được tìm thấy, thường do bội nhiễm trong quá trình lấy mẫu. Đái máu vi thể xảy ra ở trên 50% bệnh nhân, nhưng đái máu đại thể ít phổ biến hơn. Trụ bạch cầu, loại trụ có thể đòi hỏi nhuộm đặc biệt để phân biệt với trụ tế bào ống thận, chỉ ra một phản ứng viêm; chúng có thể có mặt trong viêm thận bể thận, viêm cầu thận Tổng quan về hội chứng viêm cầu thận Hội chứng viêm thận được chẩn đoán khi có đái máu, protein niệu các mức độ, thường là hồng cầu biến dạng và thường có trụ hồng cầu trong xét nghiệm tế bào cặn nước tiểu. Thường có 1 trong... đọc thêm , và viêm kẽ ống thận Viêm thận ống kẽ thận Viêm thận ống kẽ thận là tổn thương ống thận và khoảng kẽ dẫn đến giảm chức năng thận. Thể cấp thường do phản ứng dị ứng thuốc hoặc do nhiễm trùng. Thể mạn tính xảy ra do nhiều nguyên nhân khác... đọc thêm không nhiễm trùng.

Bệnh nhân có thể có tiểu mủ khi không có vi khuẩn niệu, ví dụ, nếu bệnh nhân có sỏi thận Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa vào xét nghiệm nước tiểu... đọc thêm , u thận, viêm ruột thừa Viêm ruột thừa Viêm ruột thừa là tình trạng viêm cấp tính của ruột thừa, gây cảm giác đau bụng, chán ăn, phản ứng ở bụng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường có siêu âm hoặc cắt lớp vi tính hỗ trợ. Phương pháp... đọc thêm , viêm đại tràng Tổng quan về bệnh viêm ruột Bệnh viêm ruột [IBD], bao gồm Bệnh Crohn và viêm loét đại tràng [UC], là tình trạng tự tái phát và tự thuyên giảm đặc trưng bởi viêm mạn tính tại các vị trí khác nhau trong đường tiêu hoá, dẫn... đọc thêm hoặc nếu mẫu bị nhiễm bạch cầu từ âm đạo. Những đối tượng phụ nữ tiểu buốt và tiểu mủ nhưng không có vi khuẩn niệu đáng kể được coi là có hội chứng niệu đạo hoặc hội chứng tiểu buốt-tiểu mủ.

Kiểm tra bằng que thử cũng thường được sử dụng. Nitrite niệu dương tính trên một mẫu nước tiểu tươi [sự nhân lên của vi khuẩn trong lọ đựng bệnh phẩm khiến kết quả không đáng tin cậy nếu mẫu không được xét nghiệm nhanh] rất đặc hiệu đối với UTI, nhưng xét nghiệm không nhạy. Các thử nghiệm men esterase của bạch cầu rất đặc hiệu với sự hiện diện của > 10 WBCs /μL và khá nhạy. Ở phụ nữ trưởng thành mắc UTI không phức tạp với các triệu chứng điển hình, hầu hết các bác sỹ lâm sàng đều cho rằng xét nghiệm dương tính trên soi kính hiển vi và que thử là đủ; trong những trường hợp này, việc tìm ra các căn nguyên cụ thể dựa vào nuôi cấy dường như không làm thay đổi cách điều trị nhưng sẽ tăng chi phí đáng kể.

Cấy nước tiểu được khuyến cáo ở những bệnh nhân có các đặc điểm và triệu chứng gợi ý UTI phức tạp hoặc chỉ định điều trị vi khuẩn niệu. Dưới đây là các trường hợp được khuyến cáo:

  • Phụ nữ mang thai

  • Phụ nữ sau mãn kinh

  • Nam giới

  • Trẻ trước tuổi dậy thì

  • Bệnh nhân có dị dạng đường niệu hoặc can thiệp thủ thuật đặt dụng cụ vào đường niệu gần đây

  • Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc có các bệnh phối hợp

  • Bệnh nhân có các triệu chứng gợi ý viêm thận bể thận hoặc nhiễm khuẩn huyết

  • Bệnh nhân nhiễm trùng tiết niệu tái phát [ 3 lần/ năm]

Các mẫu nước tiểu có lượng lớn các tế bào biểu mô được coi là bị nhiễm bẩn và không giúp ích cho việc nuôi cấy. Một mẫu nước tiểu không bị nhiễm bẩn mới được dùng để nuôi cấy. Nuôi cấy mẫu nước tiểu buổi sáng có nhiều khả năng phát hiện UTI. Các mẫu nước tiểu được để ở nhiệt độ phòng > 2 giờ có thể mang lại kết quả đếm khuẩn lạc cao giả tạo do sự nhân lên của vi khuẩn. Tiêu chuẩn nuôi cấy dương tính bao gồm việc phân lập một chủng vi khuẩn duy nhất từ mẫu nước tiểu giữa dòng sạch, hoặc mẫu nước tiểu dẫn lưu trực tiếp từ bàng quang.

Trong trường hợp vi khuẩn niệu không triệu chứng,các tiêu chuẩn về nuôi cấy dương tính dựa trên hướng dẫn của Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ [xem Guidelines for the Diagnosis and Treatment of Asymptomatic Bacteriuria in Adults] là:

  • Hai mẫu nước tiểu sạch liên tiếp [đối với nam giới cần một mẫu] cho kết quả cùng 1 chủng vi khuẩn được phân lập với số khuẩn lạc >105/ mL

  • Với cả nữ hoặc nam, mẫu nước tiểu lấy trực tiếp qua ống thông tiểu, phân lập được một chủng vi khuẩn với số khuẩn lạc > 102/ mL

Trong trường hợp bệnh nhân có triệu chứng, tiêu chuẩn nuôi cấy là:

  • Viêm bàng quang không phức tạp ở phụ nữ:> 103/ mL

  • Viêm bàng quang không phức tạp ở phụ nữ:> 102/ mL [This quantification may be considered to improve sensitivity to E. coli.]

  • Viêm thận bể thận cấp, không phức tạp ở phụ nữ:> 104/ mL

  • UTI phức tạp:> 105/ mL ở phụ nữ; hoặc> 104/ mL ở nam giới hoặc mẫu lấy từ ống sonde tiểu ở phụ nữ

  • Hội chứng niệu đạo cấp:> 102/ mL với một chủng vi khuẩn duy nhất

Kết quả nuôi cấy dương tính, bất kể số khuẩn lạc là bao nhiêu, trong một mẫu thu được bằng chọc bàng quang trên xương mu nên được coi là dương tính thật.

Với mẫu nước tiểu giữa dòng, E. coli có thể vẫn là căn nguyên thực sự nếu nó mọc lên cùng với phức hợp các vi khuẩn khác [1] Tham khảo [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm .

Đôi khi nhiễm trùng đường niệu xuất hiện dù số lượng khuẩn lạc thấp, có thể là do điều trị kháng sinh trước đó, nước tiểu pha loãng [tỉ trọng 2 ngày. Bệnh nhân có ống thông bàng quang lưu thường dễ bị nhiễm... đọc thêm . Tuy nhiên, bệnh nhân có nguy cơ biến chứng từ nhiểm khuẩn niệu không triệu chứng [xem [Xem Tổng quan về nhiễm trùng đường tiết niệu[UTI]. Xem thêm Trực khuẩn Gram âm; xem Viêm tuyến tiền liệt; xem thêm Nhiễm khuẩn tiết niệu [NKTN] ở trẻ em.] Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường... đọc thêm ] nên điều trị nguyên nhân và kháng sinh được lựa chọn như với viêm bàng quang. Ở phụ nữ có thai, chỉ có một vài loại kháng sinh có thể an toàn khi sử dụng. Các thuốc beta-lactam, sulfonamid và nitrofurantoin đường uống được xem là an toàn trong thời kỳ đầu thai nghén, nhưng trimethoprim nên tránh dùng trong 3 tháng đầu của thai kỳ,và sulfamethoxazole nên tránh dùng trong 3 tháng cuối thai kỳ, đặc biệt là sắp sinh. Bệnh nhân có các vấn đề tắc nghẽn chưa giải quyết được [ví dụ như sỏi, trào ngược] có thể cần điều trị kháng sinh dài ngày.

Viêm thận bể thận cấp tính

Kháng sinh là bắt buộc. Có thể điều trị ngoại trú bằng kháng sinh đường uống nếu thoả mãn tất cả các tiêu chuẩn sau:

  • Bệnh nhân kỳ vọng tuân thủ điều trị

  • Bệnh nhân có hệ miễn dịch tốt

  • Bệnh nhân không buồn nôn hoặc ói mửa hoặc không có dấu hiệu giảm thể tích tuần hoàn hoặc nhiễm khuẩn huyết

  • Bệnh nhân không có các yếu tố gợi ý UTI phức tạp

Ciprofloxacin 500 mg đường uống 2 lần/ngày trong 7 ngày và levofloxacin 750 mg đường uống một lần / ngày trong 5 ngày là kháng sinh được lựa chọn đầu tay nếu 20% E. coli có khả năng kháng sulfa.

Bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn điều trị ngoại trú nên nằm viện và được điều trị bằng đường tiêm dựa trên cơ sở độ nhạy theo vùng địa phương Thuốc kháng sinh được lựa chọn hàng đầu là fluroquinolones được bài tiết qua thận , chẳng hạn như ciprofloxacin và levofloxacin. Các lựa chọn khác như ampicillin cộng với gentamicin, cephalosporin phổ rộng [ví dụ ceftriaxone, cefotaxime, cefepime], aztreonam, beta-lactam / ức chế beta-lactamase kết hợp [ampicillin / sulbactam, ticarcillin / clavulanate, piperacillin / tazobactam] và imipenem / cilastatin, thường được dùng cho những bệnh nhân viêm thận bể thận phức tạp hơn [ví dụ như tắc nghẽn, sỏi, vi khuẩn kháng thuốc hoặc nhiễm trùng bệnh viện] hoặc đặt dụng cụ đường tiểu gần đây.

Thuốc được sử dụng liên tục qua đường tĩnh mạch cho đến khi hết sốt và các dấu hiệu lâm sàng cải thiện. Ở > 80% bệnh nhân, các triệu chứng cải thiện trong vòng 72 giờ. Sau đó, bệnh nhân có thể bắt đầu dùng thuốc đường uống, và bệnh nhân có thể được xuất viện sau một đợt điều trị từ 7 đến 14 ngày. Các trường hợp phức tạp bắt buộc phải điều trị dài hơn bằng kháng sinh đường tĩnh mạch với tổng thời gian từ 2 đến 3 tuần, đồng thời cần phẫu thuật sửa chữa các dị dạng giải phẫu đường niệu.

Cân nhắc điều trị ngoại trú ở phụ nữ mang thai bị viêm thận bể thận, nhưng chỉ khi triệu chứng nhẹ, theo dõi chặt chẽ, và thời gian mang thai [tốt nhất] là

Chủ Đề