Cách nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

Đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn có 2 phần, đọc hiểu và làm văn. Phần làm văn bao gồm câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Riêng câu nghị luận văn học chiếm số điểm cao nhất. Để làm tốt câu nghị luận văn học về một bài thơ, đoạn thơ, học sinh cần lưu ý những điểm sau đây để đạt được điểm cao.

Phần mở bài - giới thiệu tác giả, giới thiệu bài thơ, đoạn thơ [hoàn cảnh sáng tác, vị trí, xuất xứ]; trích dẫn bài thơ, đoạn thơ. Thân bài - làm rõ nội dung tư tưởng, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ [dựa theo các ý tìm được ở phần tìm ý]; bình luận về vị trí đoạn thơ, đoạn thơ. Kết bài - đánh giá vai trò và ý nghĩa đoạn thơ, bài thơ trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

Sơ đồ tư duy nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ:

Ví dụ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ “Sóng” [Xuân Quỳnh], nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức về tình yêu:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Đến hai khổ thơ cuối, tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em.

Thí sinh có thể phân tích bài thơ theo hướng gợi ý sau. Mở bài, giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm “Sóng” và vấn đề cần nghị luận: "Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước, là thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh. Khái quát vấn đề cần nghị luận".

Thân bài, nêu lên vẻ đẹp tình yêu qua các đoạn trích của bài thơ “Sóng”: "Khổ 1 và khổ 2, nhân vật trữ tình soi mình vào sóng để nhận thức về tình yêu: Những dạng thức tồn tại của sóng cũng là những trạng thái tâm hồn đầy mâu thuẫn, phức tạp trong tình yêu của em: dữ dội - dịu êm; ồn ào - lặng lẽ...

Con sóng luôn muốn tìm đến đại dương bao la để thỏa sức vẫy vùng vì không chịu được sự nhỏ bé, hạn hẹp của những dòng sông. Em cũng thế, cũng luôn muốn tìm thấy một tình yêu bao dung, rộng lớn để có thể hiểu nổi mình.

Sóng luôn tồn tại như một quy luật bất biến trên cõi đời, khi nào trái đất còn quay thì đại dương vẫn còn bao la, xanh thẳm, dù xưa hay nay vẫn thế. Tình yêu cũng trở thành quy luật bất biến trong đời sống nhân loại, nhất là tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ hồn nhiên, sôi nổi, nhiệt thành như tình yêu của em.

Khổ 8 và khổ 9, tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử: Khi đứng trước đại dương, em – cái tôi trữ tình của người con gái đang yêu - nhận ra rằng biển cả dù lớn thì cũng đều có giới hạn: bến bờ. Từ đó, trong lòng em gợn lên những suy tư, trăn trở, lo âu khi nhận ra sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người [khổ 8].

Biển cả dẫu có giới hạn như cuộc đời mỗi người nhưng những con sóng không bao giờ ngơi nghỉ cũng như tình yêu đã trở nên bất diệt, song hành mãi mãi cùng nhân loại. Từ những chiêm nghiệm ấy, em đã ao ước, khát khao hướng đến một tình yêu trường tồn, vĩnh hằng; cái tôi yêu đương đã sẵn sàng dâng hiến để trở nên bất tử. [khổ 9]".

Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ viết theo thể thơ năm chữ nhịp ngắn, giàu nhạc điệu, hình ảnh ẩn dụ đồng hiện giữa sóng và em; từ ngữ, hình ảnh khơi gợi nhiều cảm xúc.

Nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em: "Ở hai khổ đầu, sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết nghệ thuật được nhân vật trữ tình chiêm ngưỡng với những suy ngẫm sâu xa để từ đó phát hiện giữa sóng và em có những tương đồng đến kì lạ: đầy phức tạp, bí ẩn nhưng đã khái quát hóa thành quy luật trường tồn.

Đến hai khổ cuối, sóng không còn đóng vai đối tượng khơi gợi cảm xúc nữa mà thật sự trở thành hình tượng song hành, đồng hiện cùng với hình tượng em. Khát vọng của em tan ra thành trăm con sóng; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn để âm giai của cả em và sóng cùng hòa nhịp đến vĩnh hằng ngàn năm còn vỗ.

Em ở hai khổ thơ đầu là cái tôi đang nung nấu một tình yêu cháy bỏng, đầy cung bậc cảm xúc. Cái tôi ấy dễ dàng rung động trước hình ảnh giàu tính biểu cảm với tình yêu như sóng và cái tôi ấy cũng ẩn chứa bao giai điệu đẹp của khát vọng, của những nỗi bồi hồi trong trái tim của một cô gái trẻ.

Đến hai khổ cuối, qua một hành trình đồng hành cùng sóng với những bí ẩn không lời đáp, với nỗi nhớ, với khát khao vượt qua tất cả để hướng về nhau, cái tôi tình yêu trong em dường như có sự trưởng thành.

Không còn là cái tôi đầy xúc cảm phức tạp nữa mà suy tư của em tập trung cho những lo âu, trăn trở về cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn có thể biến tình yêu thành điểm chết tuyệt vọng.

Đó vẫn là một cái tôi đầy mãnh liệt, khao khát nhưng không phải từ một ái tình liều lĩnh, bất chấp mà là cái tôi muốn hòa vào sự bất tử của thiên nhiên để hát mãi khúc tình ca.

Em và sóng từ hai hình tượng tách bạch, đơn lẻ đã có sự hòa quyện, đồng điệu trong ngòi bút đầy tinh tế. Sự vận động của hai hình tượng cũng là sự chuyển biến trong mạch cảm xúc của Xuân Quỳnh, nhà thơ vốn dĩ đầy khao khát yêu thương".

Đánh giá chung cả bài thơ, thí sinh cần khẳng định lại ý nghĩa, giá trị của tác phẩm. Nêu bài học liên hệ là hướng tới tình yêu trong sáng; sự trưởng thành trong tình yêu.

Phan Thế Hoài[giáo viên]

Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là dạng cơ bản nhất của nghị luận văn học. Đây cũng là dạng bài mà học sinh còn rất mơ hồ trong việc xác lập luận điểm. Novateen sẽ mách các bạn học sinh phương pháp làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.

Thế nào là bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.

Xem thêm>>> Cách viết đoạn văn nghị luận xã hội về một hiện tượng xã hội

Đặc điểm của dạng nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

Đề bài của bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ thường có những đặc điểm sau:

Dạng bài phân tích toàn bộ bài thơ:

Người ra đề thường lựa chọn những vấn đề hoặc khía cạnh nổi bật của bài thơ.

Ví dụ: Phân tích hình ảnh người lính trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Tiểu đội xe không kính trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước

– Dạng bài phân tích một đoạn thơ:

Người ra đề thường chọn đoạn thơ đặc sắc về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật nổi bật của bài thơ.

Ví dụ: Em hãy viết  đoạn văn nêu cảm nhận của mình về khổ thơ cuối cùng trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” để làm rõ tình cảm của tác giả đối với quê hương, đất  nước.

– Dạng bài phân tích một hình ảnh trong đoạn thơ, bài thơ:

Hình ảnh được lựa chọn phải giàu ý nghĩa biểu tượng và giá trị nội dung.

Ví dụ: Ba câu kết trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu với hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là bức tranh đẹp về tình đồng chí, là biểu tượng đẹp đẽ về cuộc đời người chiến sĩ. Em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 12 câu phân tích hình ảnh đặc sắc đó.

Bài thơ Đồng chí thường được ra đề dạng văn nghị luận

– Dạng bài so sánh giữa hai đoạn thơ, bài thơ.

Hai ngữ liệu được lựa chọn sẽ có nét tương đồng, gần gũi.

Ví dụ: Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải có viết:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một nhành hoa

Ta nhập trong hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Có những điểm gặp gỡ trong tư tưởng với nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Một khúc ca xuân”:

Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào có vay mà không có trả

Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

Em hãy so sánh hai khổ thơ trên để thấy được những điểm gặp gỡ của hai nhà thơ.

Dàn ý của bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

– Giới thiệu ngắn gọn về những nét chính về tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu những vấn đề nghị luận và trích dẫn.

– Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn thơ, bài thơ,…

– Phân tích cụ thể khổ thơ, đoạn thơ

+ Phân tích theo bố cục của bài hoặc từng câu [bổ ngang]

+ Phân tích theo hình tượng hoặc nội dung xuyên suốt bài thơ [bổ dọc].

– Nêu đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ: những hình ảnh giàu ý nghĩa, biểu tượng, cấu tứ, nhịp điệu.

Đánh giá khái quát và khẳng định giá trị riêng, đặc sắc của bài thơ, đoạn thơ nghị luận.

Video liên quan

Chủ Đề