Công dân không vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở tự ý vào nhà người khác để

TỘI XÂM PHẠM CHỖ Ở CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ.

Tội xâm phạm chỗ ở người khác được quy định tại điều 124 bộ luật hình sự 1999 và điều 158 bộ luật hình sự 2015.

Theo điều 158, Bộ luật hình sự 2017 quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác;

b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ;

c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ;

d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát;

đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, đối với tội xâm phạm chỗ ở của người khác thì mức phạt tù cao nhất lên đến 05 năm.

BÌNH LUẬN:

Tội xâm phạm chỗ ở của công dân là hành vi khám trái pháp luật chỗ ở, đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.

Mặt dù điều văn của điều luật nêu ba loại hành vi ( khám, đuổi hoặc hành vi khác), nhưng các hành vi này đều được gọi chung là hành vi xâm phạm, nên dù người phạm tội thực hiện một hoặc cả ba hành vi trên thì cũng chỉ định tội là “xâm phạm chỗ ở của công dân”.

Tội danh của tội phạm này là “xâm phạm chỗ ở của công dân” mà không quy định “xâm phạm trái pháp luật hay trái phép chỗ ở của công dân”, nhưng không vì thế mà cho rằng tội phạm này có cả hành vi khám, đuổi hoặc có hành vi khác được pháp luật cho phép, vì bản thân thuật ngữ “xâm phạm” đã bao hàm tính trái phép ( trái pháp luật ) rồi. Tất cả các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân đều không kèm theo từ trái pháp luật hay từ trái phép.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm chỗ ở của công dân cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân, chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân không có trường hợp phạm tội nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định như Bộ đội Biên phòng; Cán bộ kiểm lâm; Cán bộ, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang; Cán bộ, nhân viên Công an nhân dân... Đối với những người này, thông thường phạm tội trong khi thi hành công vụ, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân mà xâm phạm chỗ ở của công dân.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Khách thể của tội xâm phạm chỗ ở của công dân là quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 73 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật” Quyền bất khả xâm phạm chỗ ở của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 7 (đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân. không ai được xâm phạm chỗ ở của công dân. Việc khám xét chỗ ở phải theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự); Điều 115 (căn cứ khám chỗ ở); Điều 116 (Thẩm quyền ra lệnh khám xét chỗ ở); Điều 118 (Khám chỗ ở). Ngoài quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về khám chỗ ở, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính cũng có những quy định về khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, nếu nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì cũng được coi như khám chỗ ở theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được quy định chặt chẽ hơn.

Đối tượng tác động của tội phạm này là chỗ ở của công dân, có thể là nhà ở, ký túc xá, tầu thuyền của ngư dân mà cả gia đình họ sinh sống trên tầu thuyền đó như là nhà ở của mình, cũng có khi chỉ là một túp lều, một chỗ ở gầm cầu, bến tầu, bến xe, vỉa hè của những người sống lang thang cơ nhỡ...

Nếu nhà ở, căn hộ do Nhà nước quản lý nhưng chưa có người ở mà người phạm tội có hành vi xâm phạm (phá khoá vào chiếm nhà) thì không phải là xâm phạm chỗ ở của công dân mà tuỳ trường hợp cụ thể mà hành vi xâm phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở theo điều 270 Bộ luật hình sự; nếu chủ nhà đã ở trong căn nhà đó nhưng vì điều kiện phải đi công tác, đi du lịch, học tập lâu ngày mà phải khoá cửa không ở thường xuyên mà người khác xâm phạm thì cũng là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Nhưng nếu đó là nhà của công dân đã hoặc đang hoàn tất, mà người phạm tội đến chiếm thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm sở hữu quy định tại chương XIV Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đây là vấn đề chưa được tổng kết thực tiễn xét xử nên còn có những quan điểm khác nhau, trong đó có ý kiến cho rằng hành vi xâm phạm nhà bỏ không của cá nhân vẫn là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân.

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm.

a. Hành vi khách quan.

Người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân có thể có các hành vi như: khám xét chỗ ở, đuổi người ra khỏi chỗ ở của họ hoặc hành vi khác xâm phạm chỗ ở.

Khám xét chỗ ở  là hành vi lục soát, tìm kiếm những gì mà người khám có ý định tìm kiếm trong phạm vi chỗ ở của người khác. Nếu khám xét là một hoạt động điều tra, thì việc khám xét là để tìm kiếm và thu hồi công cụ, phương tiện phạm tội (vật chứng), đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc để phát hiện người phạm tội đang lẩn trốn hoặc có lệnh truy nã.v.v...

Khám xét trái phép là khám xét mà không được pháp luật cho phép như: không có lệnh khám xét chỗ ở, tuy có lệnh nhưng lệnh đó không hợp pháp hoặc khi thực hiện việc khám không đúng thủ tục... Muốn biết trường hợp nào là khám xét chỗ ở trái phép thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về trường hợp được khám chỗ ở. Việc khám xét chỗ ở có liên quan đến hành vi phạm tội được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, còn việc khám chỗ ở có liên quan đến hành vi vi phạm hành chính được tiễn hành theo Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính

Theo quy định tại Điều 115 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc khám chỗ ở có liên quan đến hành vi phạm tội chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định chỗ ở của công dân có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện có người đang có lệnh truy nã.

Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ những người sau đây mới được ra lệnh khám chỗ ở:

- Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát  nhân dân và Viện kiểm sát  quân sự các cấp;

- Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;

- Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân khu trở lên chủ toạ phiên toà;

- Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân. Trong trường hợp này, lệnh khám xét chỗ ở phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Trong trường hợp không thể trì hoãn, thì những người sau đây được ra lệnh khám xét chỗ ở, nhưng sau khi khám xong, trong thời gian 24 giờ, người ra lệnh khám phải báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp:

- Trưởng công an, Phó trưởng công an cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân;

- Người chỉ huy của đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;

- Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật tố tụng hình sự, thì khi khám chỗ ở phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Khi khám chỗ ở, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong.

Việc khám xét chỗ ở theo thủ tục hành chính tuy không được quy định cụ thể như Bộ luật tố tụng hình sự nhưng căn cứ vào quy định về khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, thì nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể là chỗ ở.

Theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trưởng Công an cấp huyện có quyền ra lệnh khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; nếu nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nhà ở thì lệnh đó phải được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn trước khi tiến hành. Cục trưởng Cục cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng Cảnh sát kinh tế, Trưởng phòng Cảnh sát hình sự cấp tỉnh, Trưởng Công an cấp huyện, Đội trưởng Đội quản lý thị trường có quyền ra lệnh khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính khi có căn cứ để cho rằng nếu không tiến hành khám ngay thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; phải báo cáo bằng văn bản cho Việm kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh khám. Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và có hai người chứng kiến. Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đều phải lập biên bản và phải giao cho người chủ nơi bị khám một bản.

Như vậy, việc khám chỗ ở của công dân được pháp luật quy định rất chặt chẽ, nếu khám xét chỗ ở của công dân không đúng với quy định trên đều là hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Tuy nhiên không phải hành vi vi phạm nào cũng cấu thành tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của công dân, mà chỉ coi là tội phạm khi hành vi xâm phạm chỗ ở được thực hiện do cố ý, nếu vì thiếu trách nhiệm hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém thì tuỳ trường hợp có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử lý hành chính.

Đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ là hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác nhằm buộc người khác ra khỏi chỗ họ đang ở. Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ thường do những người không có chức vụ, quyền hạn thực hiện như: Chủ nợ xiết nợ, tranh chấp thừa kế, tranh chấp trong trong quan hệ thuê nhà, muợn nhà... Tuy nhiên, cũng có trường hợp người thực hiện hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ lại do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, trong trường hợp này chủ yếu do những người thực hiện công vụ trái pháp luật như: Cán bộ thi hành án, cán bộ thi hành quyết định hành chính gây ra.

Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ được coi là hoàn thành khi người bị đuổi buộc phải ra khỏi nhà, không kể thời gian là bao nhiều, đối với một người hay tất cả gia đình họ, không kể sau khi bị đuổi họ không được trở lại hay được trở lại chỗ ở trước đó bị đuổi.

Nếu trong khi thực hiện hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ mà còn gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, tài sản của người bị đuỏi thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Ví dụ: Trịnh Bá C quê ở Nghệ An vào khai hoang tại Tây Nguyên. Khi về thăm quê biết Bố mẹ đã bán nhà cho anh Nguyễn Văn Q, vợ chồng anh Q đã trả đủ tiền và dọn đến ở, mọi thủ tục sang tên trước bạ đã hoàn tất, nhưng C cho rằng, việc bố mẹ bán nhà không hỏi ý kiến của mình, giá nhà lại đang tăng. Lấy lý do muốn giữ lại ngôi nhà để thờ tổ tiên, C nhiều lần đến gặp vợ chồng anh Q xin huỷ hợp đồng mua bán nhà, nhưng anh Q không đồng ý nên C đã tổ chức 10 người mang theo dao, gậy kéo đến đe doạ buọc vợ chồng anh Q phải ra khỏi nhà; bị anh Q chống cự, C đã dùng dao chém anh Q nhiều nhát gây thương tích có tỷ lệ thương tật là 40%. Ngoài hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ, Trịnh văn Q còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.

Hành vi khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân là những hành vi không phải là khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác hoặc đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ. Hành vi này được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: Dùng thủ đoạn gian dối lừa chủ nhà và gia đình họ ra khỏi chỗ ở rồi chiếm chỗ ở, tự ý dọn đồ của chủ nhà ra ngoài để chuyển đồ đạc của mình vào nhà khi chủ nhà đi vắng rồi ở luôn trong nhà. Cũng có trường hợp không dọn đồ đạc của chủ nhà ra mà trong lúc chủ nhà đi vắng đã dọn đồ đạc của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm vào nơi ở của chủ nhà nhằm mục đích tranh giành một phần diện tích nhà ở. Ví dụ: Phòng 51 nhà B9 khu tập thể K.L có diện tích 17 m2 do cơ quan T quản lý giao cho anh Đỗ Cao Thăng và anh Võ Thành Long là hộ độc thân ở và quản lý. Khi anh Long lấy vợ, Nguyễn Duy Ng, Phó văn phòng và Nguyễn Đức T, Trưởng phòng tài vụ cơ quan T cho rằng anh Long lấy vợ nhằm chiếm nhà của cơ quan. Lợi dụng việc lãnh đạo cơ quan có chủ trương giải toả túp lều của ông Phạm Văn Th là bảo vệ cơ quan đã về hưu, nên Ngh và T đã chuyển toàn bộ đồ đạc của ông Th đến phòng 51 trong lúc anh Long và anh Thăng không có nhà.

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm.

Tội xâm phạm chỗ ở của công dân được thực hiện do cố ý (lỗi cố ý phạm tội), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra hoặc nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xẩy ra.

Nói chung, người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân thực hiện hành vi của mình do cố ý trực tiếp (hình thức lỗi cố ý thứ nhất), nhưng cũng có trường hợp người phạm tội chỉ nhận thức được hành vi là trái pháp luật, có thể thấy trước hậu quả của hành vi, không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xẩy ra (hình thức lỗi cố ý gián tiếp).

Người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân có nhiều động cơ khác nhau; động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, nên việc xác định động cơ phạm tội của người phạm tội chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Mục đích của người phạm tội là mong muốn xâm phạm được chỗ ở của người khác. Tuy nhiên, mức độ có khác nhau, có người chỉ mong khám chỗ ở của người khác, có người mong đuổi được người khác ra khỏi chỗ ở, có người mong lấn chiếm được được một phần chỗ ở của người khác.v.v...

Khi xác định lỗi, cũng như động cơ, mục đích của người phạm tội xâm phạm chỗ ở của công dân, cần chú ý một số vấn đề sau:

- Đối với hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân của những người thực hiện công vụ (điều tra viên, chấp hành viên, cảnh sát, cán bộ quản lý thị trường, kiểm lâm, bộ đội biên phòng...) nếu vì động cơ đấu tranh phòng chống tội phạm và do yếu kém về nghiệp vụ hoặc vì thiếu trách nhiệm để cấp dưới của mình khám trái phép chỗ ở của công dân thì không bị coi là cố ý phạm tội mà tuỳ trường hợp hành vi của những người này có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.

- Đối với hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân không phải là những người thực hiện công vụ thì không cần phải xác định động cơ mục đích của người phạm tội vì họ không phải là người thi hành công vụ nên việc xâm phạm chỗ ở của công dân chỉ là do cố ý, không thể có trường hợp do nghiệp vụ non kém hay do thiếu trách nhiệm mà xâm phạm trái phép chỗ ở của công dân được.

B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ.

1. Phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật hình sự.

Là trường hợp xâm phạm chỗ ở của công dân không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 1 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự thì "điều luật được áp dụng đối với một hành vi tội phạm là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi tội phạm được thực hiện". Do đó, hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý vẫn áp dụng Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội.

Tuy nhiên, tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an lại hướng dẫn: “Đối với những Tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự”. Hướng dẫn này trái với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999. Thiết nghĩ các cơ quan ban hành Thông tư trên cần sửa đổi kịp thời mục 4 để việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 chính xác hơn.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi trong ba hành vi quy định tại điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ. Nếu người phạm tội có đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho họ được hưởng án treo.

2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật hình sự.

a. Phạm tội có tổ chức

b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm phạm chỗ ở của công dân

c. Gây hậu quả nghiêm trọng

- Gây chết người ngoài trường hợp dùng vũ lực. Ví dụ: Đuổi một người đang bị bệnh nặng ra khỏi nhà dẫn đến người này bị chết.

- Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỷ lệ thương tật từ 41% trở lên ngoài trường hợp dùng vũ lực;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên, ngoài hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản của chủ nhà khi thực hiện hành vi xâm phạm chỗ ở của công dân. Ví dụ: Do dọn đồ đạc của chủ nhà ra khỏi nhà nên bị hư hỏng, mất mát.

- Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cơ quan tiến hành tố tụng xác định hậu quả khác là hậu quả nghiêm trọng như: Người bị đuổi ra khỏi nhà đi lang thang, phải bỏ học, bỏ sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến uy tín của cơ quan Nhà nước, tổ chức...

Xâm phạm chỗ ở của công dân gây hậu quả nghiêm trọng là tình tiết mới được quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật hình sự năm 1999 nên không áp dụng đối với hành vi xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý, mà vẫn áp dụng khoản 1 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985.

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ một năm đến ba năm, cũng là tội phạm ít nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 124 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì mức thấp nhất của khung hình phạt tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự chỉ có sáu tháng tù. Do đó không áp dụng đối với hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn xâm phạm chỗ ở của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý.

Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới một năm tù hoặc chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ ; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, là người thuộc đối tượng nghiêm trị được quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự (người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu mạnh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyết, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quản nghiêm trọng) thì phạt mức cao của kung hình phạt ( ba năm tù).