Dàn ý nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Tổng hợp dàn ý Thuật lại đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng văn xuôi chú ý miêu tả nội tâm của nàng Kiềudo Top lời giảisưu tầm và biên soạn. Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn khác nhau, qua đó có thể tiếp cậntác phẩmvới cái nhìn đa chiều, mới mẻ hơn. Mời các bạn cùng xem!

I. Dàn ýThuật lại đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng văn xuôi chú ý miêu tả nội tâm của nàng Kiều

1. Mở bài:Giới thiệu bản thân và tỉnh cảnh bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích

2. Thân bài:

- Tâm trạng cô đơn, buồn tủi trước không gian bát ngát, mênh mông

- Nỗi nhớ thứ nhất: nhớ tình yêu với Kim Trọng nhưng lại là da diết, đau đáu.

- Nỗi nhớ thứ hai: nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ và người con bất hiếu khiến cha mẹ phiền lòng

- Cảm xúc khi bản thân quay về thực tại trớ trêu.

3. Kết bài:Nói ra cảm xúc của bản thân, và ước mơ tự do, khát vọng sum vầy.


II. Bài văn mẫu Thuật lại đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng văn xuôi, chú ý miêu tả nội tâm của nàng Kiều

Mẫu số 1

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, tôi đau đớn, tủi nhục tìm đến cái chết. Tú Bà sợ mất vốn vội khuyên can, vờ hứa hẹn sẽ gả tôi cho một người tử tế. Mụ đưa tôi ra sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng, lập mưu buộc tôi sống cảnh “cuộc vui suốt tháng; trận cười thâu đêm “. Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó cao ngất ngưởng, đứng trên lầu như sắp với được mặt trăng. Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Tôi sống ở đó, sớm làm bạn với trời mây, đêm làm bạn với ngọn đèn, thui thủi một mình một bóng. Cô đơn, tôi nhớ tới Kim Trọng, người đã cùng mình thề nguyền gắn bó rồi chính mình đã phụ lời nguyền. Giờ này chắc hẳn Kim Trọng vẫn đang chờ mong tin tức của mình, đâu biết rằng tôi đã phải bán mình vào nơi nhơ bẩn, một mình bơ vơ nơi góc biển chân trời. Tôi đau đớn nghĩ, tấm lòng son trong trắng dành cho Kim Trọng nay đã bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho sạch mà còn mong xứng đáng với chàng ? Buồn thương, tôi nhớ đến cha mẹ. Tôi thương cha xót mẹ sáng chiều tựa cửa trông ngóng tin con. Tôi xót xa nghĩ, lúc cha mẹ tuổi già sức yếu lẽ ra mình phải ở bên để đỡ đần, phụng dưỡng thì nay lại phải xa xôi cách biệt. Tôi tự hỏi, không biết giờ đây ai đang chăm sóc cha mẹ, ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ được yên giấc? Kể từ ngày xa cha mẹ đến nay đã mấy mùa mưa nắng. Quê nhà chắc đã nhiều sự đổi thay. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà con thì lưu lạc xứ người... Nghĩ đến đây, lòng tôi vô cùng đau đớn, nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng. Buồn bã, tôi trông ra cửa biển. Chiều buông, cả một vùng nước non bát ngát, hoang vắng. Xa xa, thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Thuyền ơi đi về đâu ? Tôi ngước nhìn lên ngọn thác, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi. Hoa ơi trôi về đâu? Tôi trông sang nội cỏ, chân mây, mặt đất... Tất cả, tiếp nối nhau thành một màu xanh rợn ngợp. Cuối cùng, tôi trông xuống mặt duềnh. Ngọn gió thổi mạnh cuốn theo sóng biển ầm ầm, thét gào xung quanh như một dự báo hãi hùng về số phận, cuộc đời mình.

Mẫu số 2

Mã Giám Sinh nhân cách kém cỏi, lòng tham không đáy, tôi có ngờ đâu hắn cũng là phường “buôn thịt bán người”, mê muội trước đồng tiền mà đã nỡ bán tôi cho Tú Bà, một bà chủ lầu xanh nức tiếng trong vùng. Biết được sự tình, tôi ta tủi nhục quá độ, toan rút dao tự vẫn. Tú Bà đứng cạnh, hoảng hồn ngăn cản vì sợ mất món tiền lớn vừa mới giao cho họ Mã.

Tú Bà quả thực là tay lọc lõi, già đời trong nghề. Sợ tôi quẫn trí làm liều, mụ mang lời ngon ngọt ra dụ dỗ, hứa hẹn nhiều điều. Mụ khuyên tôi đến lầu Ngưng Bích nghỉ dưỡng một thời gian cho khuây khỏa rồi hứa sẽ tìm một tấm chồng xứng đáng cho ta. Mụ khóc lóc than trách rằng mình cũng bị Mã Giám Sinh lừa gạt chứ sự tình chẳng muốn thế. Tin lời, tôi tạm đến Ngưng Bích. Ngay lập tức, mụ biệt giam tôi ở đây, không cho ai tiếp cận đồng thời cho người canh phòng hết sức cẩn trọng. Biết mình chẳng thoát được, tôi đành ngồi đợi cho ngày tháng dần trôi mà trong lòng muôn vàn ngán ngẩm.

Mỗi ngày, mình tôi một bóng. Sớm nhìn trông cửa biển bốn bề mênh mông, tối quạnh hiu, bẽ bàng đối diện ngọn đèn. Nỗi lòng thương cha nhớ mẹ đau đáu chẳng biết tỏ cùng ai. Làm thân con gái, chưa từng hạnh phúc thì đã sa vào cạm bẫy cuộc đời.

Đêm tối bao trùm lầu vắng. Ánh trăng mịt mờ cuối dãy núi xa. Không gian vốn đã hoang vắng giờ càng thêm tàn tạ. Chợt nghĩ về chàng Kim mà trong lòng quặn thắt, nước mắt giàn giụa trên mi. Chắc giờ này, chàng cũng đang mong mỏi ta, ngày trong mai chờ vò võ. Chén rượu năm xưa còn nồng trên môi mà giờ người đã xa quá. Lời nguyện ước chưa thành mà cuộc tình đã tan tành, chia lìa đôi ngả. Dẫu Thúy Vân đã nhận lời thay tôi kết duyên cùng chàng, vẹn lời nguyền ước nhưng trái tim làm sao quên được những mặn nồng ái ân. Tiếc thay, chim không về tổ, cá đã lạc bầy, giờ nơi đất khách quê người, muôn trùng cách biệt, biết bao giờ được mới được đoàn viên. Thân tôi giờ đây đã bị làm nhục, thanh danh vấy bẩn, tấm thân này gột rửa đến bao giờ cho vơi. Hỡi ôi, dẫu có muốn thì cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trở về gặp chàng, gợi lại tình xưa. Nghĩ mà càng thêm đau.

Ngày tôi cất bước đi cùng họ Mã, chắc cha và em cũng đã được quan phủ cho xuất lao. Sự đời tai bay vạ gió, ông trời oán giận điều chi mà nỡ trừng phạt để đến nỗi vướng vòng lao lý, kẻ nam người bắc muôn vàn khổ sầu. Xót xa khi nghĩ về mẹ ngày đêm tựa cửa ngóng trông con về. Cánh nhạn đi về bao tối mà tin con vẫn bặt vô âm tín. Giờ đây, biết còn ai quạt nồng ấp lạnh, phụng dưỡng song thân cho chu toàn. Chữ hiếu chưa tròn, phân mình bơ vơ nơi góc bể chân trời, càng nghĩ càng thêm xót xa.

Mẫu số 3

Tâm trạng buồn thương da diết của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích được diễn tả vô cùng xúc động qua tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đoạn thơ là một đoạn tuyệt bút “tả cảnh ngụ tình” của thiên tài Nguyễn Du. Tám câu thơ với điệp ngữ “buồn trông” lặp đi lặp lại như một khúc hát buồn về cuộc đời cô gái họ Vương. Mỗi câu thơ là một âm hưởng, một giai điệu thấm đẫm tâm trạng nàng Kiều và mở ra một bức tranh tứ bình mới mẻ. Cảnh vật trong buổi chiều hôm “thấp thoáng cánh buồm xa xa” như vời vợi một nỗi nhớ cha mẹ, nhớ quê nhà. Kiều một mình “thui thủi quê người một thân” sao cho khỏi nỗi nhớ ấy. Cuộc đời Kiều như cánh hoa mỏng manh “man mác” giữa dòng cuốn cuộc đời, “ngọn nước mới sa” như mang bao nỗi niềm về thân phận bấp bênh, chìm nổi của người con gái trong xã hội xưa. Nơi “nội cỏ rầu rầu” kia xanh xanh mà sao cũng u buồn thế, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có thế ta mới hiểu, mới phục cái tài tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến mức tuyệt bút. “Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” gợi cho Kiều nỗi buồn chán, tủi thân về cuộc đời, lòng người lạnh lùng, vô vị. Ở cảnh cuối, thiên nhiên hiện lên thật dữ dội. Chung quanh Kiều là tiếng sóng như đang kêu gào, làm Kiều cảm thấy hãi hùng trước bão táp cuộc đời sắp ập đến. Câu thơ như một lời dự báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, đố kị, ghen ghét, bon chen của nàng. Nàng như một cánh hoa bé nhỏ trôi giữa dòng nước rồi “biết là về đâu?”. Bốn cảnh, bốn bức tranh tứ bình được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, hình ảnh và màu sắc từ màu nhạt đến rõ nét, đậm đà, âm thanh từ tĩnh sang động, buồn man mác đến kinh sợ, hãi hùng. Biện pháp tả cảnh ngụ tình thấm đẫm trong từng cảnh vật. Qua đó ta thấy tài năng và lòng nhân ái, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du lớn biết nhường nào.

Mẫu số 4

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trước rủ màn che", sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú Bà mụ chủ lầu xanh. Do chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để xoa dịu và thực hiện âm mưu mới. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du, một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh đã khắc hoạ tâm trạng cô đơn buồn tủi, tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Thúy Kiều, một con người xinh đẹp tài năng mà bất hạnh.

Bốn câu đầu trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" miêu tả cảnh lầu Ngưng Bích thật thơ mộng, nhưng lại hoang vắng đến rợn người. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé. Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, càng tô đậm thêm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều

Không gian càng xa rộng, lòng người càng thêm trống trải, đau buồn. Sự tuần hoàn của thời gian, sự đằng đẵng mỏi mòn, càng thêm vô vọng. Tâm trạng của Kiều đầy đau buồn, xấu hổ, tủi thẹn với thiên nhiên, với lòng mình, với những người thân yêu. Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.

Nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ tới quãng thời gian hai người cùng hạnh phúc bên nhau, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc. Kiều dường như đắm chìm trong tâm trạng nhớ nhung, nàng thương Kim Trọng đang mong chờ mình vô vọng, không biết Kiều đã lỗi hẹn xưa.Nhưng thương người rồi lại thương mình, tâm trạng Kiều đau đớn xót xa. Rồi Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông, thương cho cha me ngày càng già, day dứt không được ở cận kề chăm sóc.Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Một nổi buồn mênh mông như đè nặng, bao quanh lấy nàng. Nhìn đâu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình như một định mệnh không sao thoát ra được. Điều đáng quý ở đây là: trong hoàn cảnh cô đơn, bẽ bàng vậy mà Kiều lại quên phận mình, thương nhớ tới người thân. Đó chính là đức hi sinh, lòng vị tha, tấm lòng chung thuỷ và hiếu thảo của Kiều, đây chính là nét đẹp tâm hồn của Kiều.Kiều nhớ thương cha mẹ, quê hương mong ước có ngày đoàn tụ. Kiều đau đớn cho thân phận của mình, xót cho tình yêu dở lỡ, ám ảnh về cuộc đời vô định. Một màu cỏ "rầu rầu" héo úa, tâm trạng chán chường cho hiện tại. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật. Cảnh vật vừa hư, vừa thực "thuyền ai thấp thoáng" “hoa trôi man mác” "chân mây" và "mặt đất" một màu xanh mờ ảo.Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh hy vọng lóe lên rồi chợt tắt thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh. Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" dữ dội va vào vách đá ngay dưới "ghế ngồi" liên tưởng như cơn sóng gió cuộc đời sắp ập đến, dự báo một tương lai nhiều khổ đau, nhiều biến động của Kiều.

Đây là đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều. Với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại, bốn cặp thơ như bộ tứ bình, điệp ngữ "buồn trông" lập lại ở đầu mỗi câu thơ, cùng với hệ thống từ láy "thấp thoáng", " xa xa", "man mác", "rầu rầu", "xanh xanh" gợi lên nỗi buồn da diết, triền miên, thăm thẳm và chồng chất.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kỳ diệu, một trong những đoạn thơ hay nhất của “Truyện Kiều”, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, miêu tả bi kịch nội tâm của Thuý Kiều trên con đường lưu lạc. Những vần thơ buồn thương mệnh mang đã gieo vào lòng người đọc những xót xa khôn nguôi về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc. Một tấm lòng nhân hậu yêu thương, cảm thông của nhà thơ đối với nỗi đau của Thuý Kiều mãi mãi để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc.

---/---

Như vậy,Top lời giải đã vừa cung cấp mẫu dàn ý cơ bản cũng như một số bàivăn hay Thuật lại đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích bằng văn xuôi chú ý miêu tả nội tâm của nàng Kiềuđể các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn hoàn chỉnh.Chúc các emhọc tốt môn Ngữ Văn !

Video liên quan

Chủ Đề