I - HÌNH DẠNG, CẤU TẠO
1. Vỏ trai
- Vỏ trai gồm 2 mảnh gắn với nhau nhờ bản lề ở phía lưng.
- Dây chằng ở bản lề có tính đàn hồi cùng với 2 cơ khép vỏ [bám chắc vào mặt trong của vỏ] điều chỉnh động tác đóng, mở vỏ.
- Vỏ trai có lớp sừng bọc ngoài, lớp đá vôi ở giữa và lớp xà cừ óng ánh ở trong cùng [hình 18.2].
2. Cơ thể trai
- Phần đầu của trai tiêu giảm do thích nghi lâu dài với lối sống ít hoạt động.
- Cơ thể trai gồm:
+ Dưới vỏ là áo trai, mặt ngoài áo tiết: lớp vỏ đá vôi.
+ Mặt trong áo tạo thành khoang áo, là môi trường hoạt động dinh dưỡng của trai. Tiếp đến là 2 tấm mang ở trên.
+ Ở trung tâm cơ thể: phía trong là thân trai và phía ngoài là chân trai.
II - DI CHUYỂN
- Vỏ trai hé mở cho chân trai hình rìu [hình 18.4] thò ra. Nhờ chân trai thò ra rồi thụt vào, kết hợp với động tác đóng mở vỏ mà trai di chuyển chậm chạp trong bùn với tốc độ 20 - 30cm một giờ, để lại phía sau một đường rãnh trên mặt bùn.
III - DINH DƯỠNG
- Thức ăn: vụn hữu cơ, động vật nguyên sinh.
- Dinh dưỡng kiểu thụ động nhờ 2 đôi tấm mang.
- Quá trình lọc thức ăn của trai sông diễn ra ở lỗ miệng trai nhờ sự rung động của các lông trên tấm miệng.
- Hô hấp qua 2 đôi tấm mang.
IV - SINH SẢN
- Cơ thể trai phân tính, có trai đực, trai cái.
- Đến mùa sinh sản, trai cái nhận tinh trùng của trai đực chuyển theo dòng nước vào để thụ tinh.
- Trứng phát triển thành ấu trùng trong mang của trai mẹ ->trứng được bảo vệ và ấu trùng không bị động vật khác ăn mất, đồng thời ở đâygiàu dưỡng khí và thức ăn.
- Ấu trùng bám vào mang và da cá một vài tuần nữa rồi mới rơi xuống bùn để phát triển thành trai trưởng thành
->di chuyển đến nơi xa nhằm phát tán nòi giống, tăng cường lượng oxi và được bảo vệ.