Liên kết cộng hóa trị không cực là gì

Lý thuyết liên kết cộng hóa trị

Quảng cáo

I. Liên kết cộng hóa trị

Định nghĩa: Là liên kết được hình thành giữa 2 nguyên tử bằng một hay nhiều cặp electron dùng chung.

1. Sự tạo thành liên kết cộng hóa trị trong phân tử đơn chất

- Liên kết được tạo thành giữa hai nguyên tử bằng cách góp electron để đạt cấu hình 8 electron giống khí hiếm gần nhất.

VD: Trong phân tử N2, mỗi nguyên tử Nito đạt được cấu hình 8 electron giống khí hiếm Ar bằng cách mỗi nguyên tử góp 3 electron tạo thành electron chung

Công thức electron:

Công thức cấu tạo: N ≡ N

- Các phân tử H2, O2, N2, Cl2.. tạo nên từ hai nguyên tử của cùng một nguyên tố [có độ âm điện như nhau] nên cặp electron chung không bị lệch về phía nguyên tử nào.

Đó là liên kết cộng hóa trị không cực.

2. Sự tạo thành liên kết cộng hóa trị trong phân tử hợp chất

Thí dụ: Phân tử hiđro clorua HCl.

-Trong phân tử hiđro, mỗi nguyển tử [H và Cl] góp 1 electron tạo thành một cặp electron chung để tạo liên kết cộng hóa trị. Cặp electron liên kết bị lệch về phía Clo, [ Độ âm điện của Cl là 3,5 lớn hơn độ âm điện của H là 2,1 ] liên kết cộng hóa trị này bị phân cực.

Công thức electron:

Công thức cấu tạo: H – Cl

Đây là liên kết cộng hóa trị phân cực

3. Hóa trị trong hợp chất cộng hóa trị

Hóa trị của một nguyên tố trtong hợp chất cộng hóa trị gọi là cộng hóa trị và bằng số liên kết mà nguyên tử nguyên tố đó tạo ra được với các nguyên tử khác trong phân tử.

4. Dấu hiệu nhận biết liên kết cộng hóa trị có trong phân tử

Phân tử đơn chất và hợp chất được hình thành từ phi kim.

VD: O2, F2, H2, N2, F2O, HF, H2O,….

II. Hiệu độ âm điện và liên kết hóa học

Hiệu số độ âm điện

0,0 → < 0,4

0,4 → < 1,7

≥ 1,7

Loại liên kết

Cộng hóa trị không cực

Cộng hóa trị có cực

Ion

Sơ đồ tư duy: Liên kết cộng hóa trị

Bài tiếp theo

  • Bài 1 trang 64 SGK Hóa học 10

    Giải bài 1 trang 64 SGK Hóa học 10. Chọn câu đúng nhất về liên kết cộng hóa trị.

  • Bài 2 trang 64 SGK Hóa học 10

    Giải bài 2 trang 64 SGK Hóa học 10. Chọn câu đúng trong các câu sau:

  • Bài 3 trang 64 SGK Hóa học 10

    Giải bài 3 trang 64 SGK Hóa học 10. Độ âm điện của một nguyên tử đặc trưng cho:

  • Bài 4 trang 64 SGK Hóa học 10

    Giải bài 4 trang 64 SGK Hóa học 10. Thế nào là liên kết ion...

  • Bài 5 trang 64 SGK Hóa học 10

    Giải bài 5 trang 64 SGK Hóa học 10. Dựa vào hiệu độ âm điện các nguyên tố,

  • Bài 6 trang 113 SGK Hóa học 10
  • Bài 8 trang 96 SGK Hóa học 10
  • Bài 5 trang 113 SGK Hóa học 10
  • Bài 11 trang 119 SGK Hóa học 10

Quảng cáo

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Hóa lớp 10 - Xem ngay

Báo lỗi - Góp ý

Hóa trị là gì?

Trước khi tìm hiểu liên kết cộng hóa trị là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu hóa trị là gì nhé.

Hóa trị là con số biểu thị khả năng liên kết của nguyên tử nguyên tố này với nguyên tử nguyên tố khác. Hóa trị của một nguyên tố được xác định theo hóa trị của H chọn làm đơn vị [H hóa trị I] và hóa trị của O là hai đơn vị [O hóa trị II]. Hóa trị của một nhóm nguyên tố cũng tương tự như trên [nhóm nguyên tử được coi như một nguyên tố bất kỳ].

Có những nguyên tố chỉ thể hiện một hóa trị nhưng cũng có những nguyên tố có một vài hóa trị khác nhau.

Sự hình thành liên kết cộng hóa trị bằng cặp electron chung

Sự hình thành phân tử đơn chất

  • Sự hình thành phân tử Hidro \[H_{2}\]

H : \[1s^{1}\]

Sự hình thành phân tử \[H_{2}\] : \[H. + H. \rightarrow H : H\]

  • Mỗi chấm bên kí hiệu nguyên tố biểu diễn một electron ở lớp ngoài cùng, H:H được gọi là công thức electron. Thay hai chấm bằng 1 gạch, ta có H – H gọi là công thức cấu tạo.Giữa 2 nguyên tử hiđro có 1 cặp electron liên kết biểu thị bằng một gạch [-], đó là liên kết đơn.

Sự hình thành phân tử \[N_{2}\]

\[N: 1s^{2}2s^{2}2p^{3}\]

Hai nguyên tử N liên kết với nhau bằng 3 cặp electron liên kết biểu thị bằng 3 gạch [ \[\equiv\] ], đó là liên kết 3. Liên kết 3 bền hơn liên kết đôi

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Các loại liên kết cộng hóa trị
  • 3 Cấu trúc cộng hóa trị
  • 4 Các liên kết một và ba electron
  • 5 Cộng hưởng
    • 5.1 Thơm
    • 5.2 Siêu hóa trị
    • 5.3 Thiếu electron
  • 6 Mô tả cơ chế lượng tử
  • 7 Xem thêm
  • 8 Tham khảo
  • 9 Nguồn
  • 10 Liên kết ngoài

Lịch sửSửa đổi

Thuật ngữ covalence đề cập tới liên kết được sử dụng lần đầu vào năm 1919 bởi Irving Langmuir trong một bài viết của Tạp chí Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ, tựa là "Sự sắp xếp của các điện tử trong các nguyên tử và phân tử". Langmuir viết rằng "chúng ta sẽ biểu thị thuật ngữ convalence bằng số cặp electron mà một nguyên tử thường chia sẻ với nguyên tử cạnh nó." [we shall denote by the term covalence the number of pairs of electrons that a given atom shares with its neighbors]

Ý tưởng về liên kết cộng hóa trị có thể đã được tìm ra từ vài năm trước. Vào năm 1916, Gilbert N. Lewis đã mô tả sự dùng chung các cặp electron giữa các nguyên tử.[6] Ông giới thiệu kí hiệu Lewis hoặc dấu chấm electron hay cấu trúc chấm Lewis, trong đó các electron hóa trị [ở lớp vỏ] được biểu diễn dưới dạng những nốt chấm xung quanh các kí hiệu nguyên tử. Các cặp electron nằm giữa các nguyên tử đại diện cho các liên kết cộng hóa trị. Nhiều cặp electron đại diện cho nhiều liên kết, như là các liên kết đôi và liên kết ba. Một cách biểu diễn thay thế, không được trình diễn ở đây, là biểu diễn các cặp electron tạo thành liên kết dưới dạng các gạch thẳng.

Lewis đề xuất rằng một nguyên tử tạo ra đủ các liên kết cộng hóa trị để lấp đầy [đóng kín] lớp vỏ ngoài cùng. Trong biểu đồ khí metan được trình diễn tại đây, nguyên tử cacbon có hóa trị bốn, do vậy được bao quanh bởi tám electron [quy tắc bát tử], bốn electron của chính nguyên tử cacbon và bốn electron từ các nguyên tử hydro đã liên kết với nó. Mỗi hydro có hóa trị một được bao quanh bởi hai electron [một quy tắc đôi] - một electron của chính nó cộng thêm một electron từ nguyên tử cacbon. Số lượng electron tương ứng với số lượng dùng để lấp đầy lớp vỏ ngoài theo thuyết lượng tử của nguyên tử; lớp ngoài cùng của một nguyên tử cacbon là n=2, có thể chứa được tám electron, trong khi lớp ngoài cùng [và duy nhất] của một nguyên tử hydro là n=1, chỉ chứa được 2 electron.

Trong khi ý tưởng về các cặp electron dùng chung cung cấp một bức tranh định tính hiệu quả về liên kết cộng hóa trị, cần phải có cơ học lượng tử để hiểu được bản chất của các liên kết này và dự đoán cấu trúc cũng như là tính chất của các phân tử đơn giản. Walter Heitler và Fritz London được ghi nhận là những người đầu tiên giải thích thành công một liên kết hóa học [phân tử hydro] bằng cơ học lượng tử vào năm 1927.[7] Công trình của họ được dựa trên mô hình liên kết hóa trị, giả định rằng một liên kết hóa học được hình thành khi có sự chồng chéo tốt các obitan nguyên tử giữa các nguyên tử tham gia.

Video liên quan

Chủ Đề