Nắng ánh dao gài thắt lưng là gì
Những câu hỏi liên quan
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. (Tố Hữu, Việt Bắc)
NHỮNG BÀI VĂN MẪU THAM KHẢO GV sưu tầm: LÊ THỊ THANH HIỆP 1-ĐỀ RA: PHÂN TÍCH BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU Một vài điều cần biết qua 1. Việt Bắc là vùng địa lý - chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt là: Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là chiến khu, là thủ đô của Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch.2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 dòng thơ (câu thơ). Cấu trúc theo hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca giữa “mình” với “ta”. (Sách Văn 12 chỉ trích học 88 dòng thơ)Những ý lớn của bài thơ - Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ- Nhớ con người Việt Bắc- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.Những tình cảm đẹp, những vần thơ hay1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn người: (…) Mình đi có nhớ, những ngàyMưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùMình về có nhớ chiến khuMiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vaiMình đi có nhớ những nhàHắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương nhớ, lưu luyến mênh mông.“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về. 2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không gian: - Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:“Nhớ từng bản khói cùng sương,Sớm khuya bếp lửa người thương đi vềNhớ từng rừng nứa bờ tre,Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang…Nhớ cô em gái hái măng một mình… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung ”Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:“Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.- Nhớ chiến khu oai hùng:“Núi giăng thành luỹ sắt dày, Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”- Nhớ con đường chiến dịch:“Những đường Việt Bắc của ta,Đêm đêm rầm rập như là đất rung.Quân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.Dân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin“… (Nhớ) ngọn cờ đỏ thắm gió ***g cửa hang… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng: “Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”. 2-ĐỀ RA: BỨC TRANH TỨ BÌNH TRONG BÀI THƠ “VIỆT BẮC” BÀI VIẾT 1: Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung" Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:"Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người" Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn. Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tịn mùi hương Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - " đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy: Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu ***t của hoa mơ . Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ: Việc quân đang bận xin chờ hôm sau Ấy tin thắng trận liên khu báo về BÀI VIẾT 2: “Việt Bắc” của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương.Trong tâm trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả : ……………………………………
“Mùa xuân mơ nở trắng rừng Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của VB. “Ngày xuân” là từ báo hiệu thời gian thay đổi,1 mùa đông qua đi 1 mùa xuân mới đến.Rừng VB vào xuân trên khắp núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoa 1 màu trắng tinh khiết.Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng nhấn mạnh rừng VB bạt ngàn 1 màu trắng.Màu trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ đem lại cho người đọc 1 cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên VB giàu sức sống.Trong sắc x ân của thiên nhiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm chỉ cần cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là 1 từ chỉ động tác làm đi làm lại, người dân Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo nên những sản phẩm đẹp. Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ. ”Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước. Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ ”rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy. Chúng ta có thể thấy, ở đoạn thơ trên thiên nhiên VB hiện lên với bao vẻ đẹp đa dạng trong hững thời gian và ko gian khác nhau, thay đổi theo từng thời tiết,từng mùa . Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình dị, bằng những việc làm tưởng chừng như nhỏ bé của mình, họ đã góp phần ko nhỏ vào sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ,bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui,cùng gánh vác những trách nhiệm nặng nề khó khăn ....càng làm cho “VB” ngời sáng lung linh trong ánh hào quang của kỉ niệm. Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc. 3-ĐỀ RA: HAI BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI và NGUYỄN KHOA ĐIỀM Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im...(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận: Dây thép gai đâm nát trời chiều. Từ xúc cảm khôgn chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.Những đêm dài hành quân nung nấuBỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”. Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta: Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ...gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước ...Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời... Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rông lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại. Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình...Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta: Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà (Huy Cận) Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa...” Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung xlà một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan: Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi” “Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng. Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùôn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc...Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi...sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ.” 4-Đề ra: Phân tích bài thơ “Tây Tiến”. của Quang Dũng Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp như Nguyễn Đình Thi , Hoàng Trung Thông , Trần Hữu Thung , Hồng Nguyên , Trần Mai Ninh , Chính Hữu …Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ : “ Tây Tiến “ và “ Đôi mắt người Sơn Tây “ . Bài thơ “Tây Tiến “ được sáng tác vào năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây Tiến . Đoàn quân Tây Tiến bao gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở một địa bàn rộng lớn ở vùng núi biên giới Việt – Lào, hào hoa mà anh dũng . Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Hình ảnh “ mắt trừng “ thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương , nghĩa vụ quốc tế của mình . Trên kia ta đã từng gặp hình ảnh “ mộng “ ấy: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ“ . Nhưng tình cảm , tâm tưởng người lính lại hướng về Hà Nội , quê hương thân yêu của hầu hết binh đoàn Tây Tiến : “Rải rác biên cương mồ viễn xứ “ Câu thơ chỉ có từ “ rải rác “ là thuần Việt , còn lại là từ Hán Việt cổ kính , gợi không khí thiêng liêng , đượm chút ngậm ngùi . Đến câu thơ tiếp theo , tác giả hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó : “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh “ . “ Đời xanh “ đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi trẻ , vậy mà người lính Tây Tiến “ chẳng tiếc “ , cho nên họ chấp nhận tất cả . Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời thề “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô . Những người con của Thủ đô ở biên cương cũng có tinh thần “ hiệp sĩ “ đó . Có lẽ gọi những chàng trai “ chẳng tiếc đời xanh “ này là “ hiệp sĩ “ cách mạng , như những người lính trong “ Đồng chí “ của Chính Hữu , trong “ Nhớ “ của Hồng Nguyên . Sự hi sinh của họ thật là cảm động : “Áo bào thay chiếu anh về đất “ 5-Đề ra: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ “Tây Tiến" của Quang Dũng Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ như sau:" Đoàn quân Tây Tiến, sau 1 thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác . Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( 1 làng thuộc tỉnh Hà đông cũ _ T.Đ.X) anh viết bài thơ "Tây Tiến". Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với điạ bàn hoạt động cuả nó. Khoảng cuối muà xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là 1 đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào_Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộng kháng chiến ở những vùng khác trên đất lào. Điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về wa miền tây Thanh Hoá. những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, nuí cao, sông sâu, rừng dầy, nhiều thú dữ.Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những hs, sv ( Quang Dũng thuộc số này). Sinh hoạt cuả những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau ko có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc wan và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt cuả chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. Bài thơ "Tây Tiến" có 2 đặc điểm nổi bậy: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc cuả nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yêú tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái fi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn cuả Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vưà đa dạng vưà độc đáo, vưà hùng vĩ vưà thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng cuả núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung cuả cộng đồng, cuả toàn dân tộc. "Tây Tiến" không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện bằng 1 giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo cuả bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là 1 nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn wân mỏi Mường lát hoa về trong đêm hơi" Nỗi nhớ đơn vĩ cũ trào dâng, ko kìm nén nỗi , nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. 2 chữ "chơi vơi" như vẽ ra trạng thái cụ thể cuả nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dộc sâu, vực thẳm, rừng dầy v.v... liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau: "Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" Khổ thơ này là 1 bằng chứng "thi trung hữ hoạ" ( trong thơ có hoạ). Chỉ bằng 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra 1 bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút cuả núi rừng Tây Bắc, điạ bàn hoạt động cuả đoàn wân Tây Tiến. 2 câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình "khúc khủyu", " thăm thẳm", " cồn mây", "súng ngửi trời" đã diễn tả thật đắc điạ sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời cuả núi đèo tây Bắc. 2 chữ "ngửi trời" được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vưà ngộ nghĩnh, vưà có chất tinh nghịch cuả người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính trèo lên những ngọn nuí cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ 3 như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. nếu như câu thứ 3 nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ 4 là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên 1 dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa wa 1 ko gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giưã biển khơi. 4 câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên 1 âm hưởng đặc biệt. Sau 3 câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ 4 được vẽ bằng 1 nét vẽ rất mềm mại ( câu thứ 4 toàn thanh bằng). quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giưã những gam màu nóng, tác giả sử dụng 1 gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Cái vẻ hoang dại dữ dội, chưá đầy bí mật ghê gớm cuả nuí rừng tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó ko chỉ được mở ra theo chiều ko gian mà còn được khám fá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối d0e doạ khủng khiếp đối với con người "Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" Vậy là cảnh núi rừng tây bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ v.v... những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vưà đa dạng, vưà độc đáo cuả núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng 2 câu thơ: "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu muà em thơm nếp xôi" Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở 1 bản làng nào đó , wây wần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm luá nếp ngày muà xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.2 câu thơnày tạo nên 1 cảm giác 6m dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ 2. Đoạn thơ thứ 2 mở ra 1 thế giới khác cuả Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng cuả Tây bắc. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài hoa cuả QuangDũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ lãng mạn cuả Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang maù sắc bí ẩn cuả con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong 1 thời gian làm nổi rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo cuả nó: cảnh 1 đêm liên hoan lưả đuốc bập bùng và cảnh 1 buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh 1 đêm liên hoan văn nghệ cuả những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh cũng ko quên ảnh hưởng cuả thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong “Tây Tiến” ko hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cuả người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, wa ngoài bút của ông, ko được miêu tả 1 cách trần trụi mà wa 1 cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc cuả người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, giật dân, sảnh phẩm cuả trí tưởng tượng biạ đặt cuả nhà thơ mà chưá đựng 1 sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận lợi tiến khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét cuả những người lính, wa cái nhìn cuả Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ dằn cuả những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện wa ánh mắt giận dữ "mắt trừng gởi mộng" cuả họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút cuả Quang Dũng, ko phải là những người khổng lồ ko tim. Cái nhìn nhiều chiều cuả Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên wa cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài cuả họ, là những tâm hồn, những trái timrạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ HN dáng kiều thơm). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ cuả họ. Ngòi bút cuả Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.Cảm hứng cuả ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâm đỡ bằng đôi cánh cuả lí tưởng, cuả tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh cuả những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, 1 mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “rải rác biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng wên mình, xả thân vì tổ quốc cuả những người lính Tây Tiến ( Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh). Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp cuả những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết tựa long hồng. Cái sự thật bi thương : những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường ko có cả đến manh chiếu để che thân, wa cái nhìn cuả Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng . Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm “anh về đất” và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội cuả dòng sông Mã: 6-Đề ra: Cảm nhận về bài thơ “Tây Tiến” của QD Có một bài ca không bao giờ quên…” Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ, người chị… tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại. Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tíên? Không ! Đó là tiếng lòng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến: Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi “Nhớ về rừng núi…" Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải: Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ. Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá ! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao. Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi." Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình. Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương ? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sữ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sĩ ngụ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh: 7-ĐỀ RA: BÀI THƠ “SÓNG” CỦA XUÂN QUỲNH Cứ mỗi lần đọc bài thơ Sóng, tôi lại nhớ đến nhà thơ Xuân Quỳnh với cái cảm giác mình đang đứng trước biển. Biển mênh mông vô tận, ào ạt, đắm say, “dữ dội và dịu êm” như tâm h62n nồng nhiệt khát khao tình yêu cháy bỏng của thi sĩ. Đoá quỳnh mùa xuân mê đắm và ngạt ngào hương sắc ấy đã toả sáng hết mình, để rồi một ngày thu đẹp giữa mùa trăng, chị vĩnh viễn đi vào cõi tình yêu bất tử. Nhưng những vần thơ của chị sẽ mãi mãi còn nổi sóng. “Ôi con sóng ngày xưa Không chỉ nói “em nhớ anh” mà sâu hơn là “lòng em nhớ đến anh”. Tiếng sóng biển dạt dào, khắc khoải khôn nguôi ấy cũng chính là tiếng sóng của lòng em đó! Sóng không ngủ ư ? Lòng em cũng luôn luôn thao thức, trở trăn nỗi nhớ. Nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, “xáo trộn cả thực và mơ”. Xưa nay, có tình yêu nào không được đo bằng nỗi nhớ? Những suy tưởng trước con sóng nhớ bờ ấy khiến người co gái (em) đằm sâu hơn trong nỗi nhớ thuỷ chung của chính mình: Dẫu có đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy biến động, dù đất trời có đảo lộn dữ dội đến đâu, em vẫn hướng về phương anh, chẳng đổi thay. 8-Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong “VỢ CHỒNG A PHỦ” Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ. Tao chưa có con trai, con gái, Tao đi tìm người yêu” 9-ĐỀ RA: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRÀNG TRONG “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải ,thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuọc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy khong hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.Tình yêu , hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm múôn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấymình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đsoi và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm ahị. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý. 10-ĐỀ RA: PHÂN TÍCH TP “RỪNG XÀ NU” CỦA NGUYỄN TRRUNG THÀNH Làng văn xuôi Việt Nam hiện đại có lẽ không ai gắn bó với Tây Nguyên bằng Nguyễn Trung Thành – bút danh khác là Nguyên Ngọc. Ông có mặt ở Tây Nguyên qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ. Có lẽ chính sự gắn bó này đã khiến Nguyễn Trung Thành trở thành nhà văn tiên phong đưa Tây Nguyên đến với văn chương hiện đại và đưa văn chương đến Tây Nguyên. Trong các tác phẩm của ông, nổi trội hơn cả là truyện ngắn “Rừng xà nu” kể về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Nổi bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc đời anh đã được tái hiện cụ thể qua lời kể của cụ Mết - già làng - bên bếp lửa nhà ưng trong một đêm anh được phép về thăm làng sau ba năm đi bộ đội. “Rừng xà nu” là truyện ngắn viết năm 1965, xuất bản lần đầu tiên trong Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng trung Trung bộ số 2 năm 1965. Sau in lại trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là tác phẩm xuất sắc trong việc xây dựng hình tượng cho sức sống dẻo dai, tinh thần bất khuất của nhân dân Tây Nguyên thông qua nhân vật Tnú. Tnú là một người dân làng Xô Man với hoàn cảnh đặc biệt: mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được người làng Xô Man nuôi nấng, đùm bọc, tuy nghèo khổ nhưng tâm hồn Tnú rất trong sáng. Cụ Mết từng nói: “Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Số phận Tnú cũng rất đáng thương khi vợ con anh bị giặc giết hại ngay trước mắt, bản thân Tnú cũng hai lần bị giặc bắt, tra tấn, hành hạ. Đó cũng là số phận chung của người làng Xô Man và của cả Tây Nguyên sống dưới thời Mĩ-Diệm. Cụ Mết kể: “Từ ngày thằng Mĩ-Diệm đến rừng núi này, không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng”. Chúng đàn áp, khủng bố, gây ra biết bao cảnh đau thương cho dân làng. “Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”. Chúng tra tấn mẹ con Mai đến chết. Tất cả cũng chỉ là vì mục đích dập tắt ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy trong mỗi con người làng Xô Man, nhất là Tnú. Tnú không dễ dàng bị khuất phục. Ngay từ lúc còn nhỏ, Tnú đã tỏ ra bản lĩnh, gan góc. Khi học chữ với Mai, Tnú học chậm, thua Mai. Tnú tức giận “đập bể cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết. Cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng”. Mặc dừ chứng kiến cảnh dân làng bị giết hại dã man nhưng Tnú không hề sợ hãi mà còn tiếp bước những người đi trước phục vụ cách mạng. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Tnú thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết nên “cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang”. Khi bị phục kích, Tnú nhanh trí nuốt lá thư bảo vệ bí mật cho cách mạng. Trở về sau ba năm bị giặc bắt, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, được tôi luyện qua nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đứng lên chống giặc. Hình ảnh Tnú hiện lên thật đẹp, thật kiên cường qua những lần chiến đấu với kẻ thù. Khi bị bắt, Tnú chẳng hề tỏ ra lo sợ mà chỉ băn khoăn khĩ đến việc chung, nếu anh chết thì “Ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc?”. Anh tiếc rằng “không sống được đến ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng”… Bọn giặc tra tấn Tnú rất tàn độc, chúng đốt mười ngón tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Nhưng Tnú không hề kêu lên, Tnú nhớ lời anh Quyết: “Người Cộng sản không thèm van xin...” Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa cháy ở trong lòng - ngọn lửa chiến đấu mãnh liệt thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Tnú còn một lòng trung thành với Cách mạng, luôn hướng về Đảng, vể tự do dân tộc. Bọn giặc tra tấn mẹ con Mai dã man nhưng Tnú không xông ra ngay vì không muốn mắc mưu thằng Dục, không muốn phong trào cách mạng ở buôn làng không có người lãnh đạo để rồi tan rã. Tnú cắn răng chịu đựng, cố vượt qua nỗi bi kịch cá nhân mình, đặt lợi ích của cộng đồng lên trên hết dù anh rất yêu thương vợ con. “Ở chỗ hai con mắt anh bây gời là hai cục lửa lớn”. Một con người gan góc ấy tưởng chừng đã chai lì cảm xúc, nhưng Tnú lại là một người giàu tình thương. Khi bản năng yêu thương đã đạt mức tột cùng, nó cho Tnú cam đảm “nhảy xổ vào giữa bọn lính” mặc cho “tiếng lên đạn lách cách quanh anh”. Hai cánh tay như hai cánh lim rộng của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai, Tnú ấy thân mình bảo vệ cho vợ con. Nhưng rồi Tnú cũng không cứu sống được vợ con mình. Đó chính là nỗi bi kịch của bạn thân Tnú. Đó là một phần động lực để Tnú cầm súng lên đường với mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt trả thù cho vợ con, cho quê hương, bản làng mà anh yêu quý. Ba năm đi giải phóng quân, Tnú lúc nào cũng nhớ về bản làng. Tnú nhớ thằng bé Heng, “ngày anh ra đi, nó chỉ mới đứng đến ngang bụng anh” mà nay nó đã “vác một khẩu súng trường Mát. Ra vẻ một người lính thực sự”. Tnú nhớ về một cụ Mết “ngực căng như cây xà nu lớn” qua bao năm vẫn “quắc thước như xưa”. Tnú nhớ về cô bé Dít ngày nào nay đã làm Bí thư Chi bộ… Hình ảnh mỗi người làng Xô Man đều in đậm trong Tnú, đó là tình yêu quê hương, tình yêu buôn làng tha thiết. Tnú chấp nhận mọi khổ đau, bất chấp mạng sống của mình bảo vệ làng, để dân làng thấy được lẽ phải, để buôn làng sống trong ấm no, tự do. Ngày về làng gặp Dít, Tnú “không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế”. Hình ảnh người vợ đã ngã xuống mãi trong lòng Tnú và chắc hẳn rằng Tnú sẽ còn mang theo nó đến hết cuộc đời mình. Tnú còn là một người chấp hành kỉ luật rất nghiêm. Dù xa làng bao năm, nhưng Tnú không bao giờ tự ý bỏ về thăm làng. Cấp trên chỉ cho về phép một đêm nhưng trong sự lưu luyến của dân làng, sáng hôm sau Tnú lại lên đường trở về đơn vị. Là hình ảnh đại diện cho dân làng Xô Man, cho người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ta có thể thấy ở Tnú hội tụ đủ những tố chất của một anh hùng dân tộc: gan góc, táo bạo, dũng cảm và giàu lòng yêu thương. Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng hình ảnh người anh hùng lí tưởng. Tnú như một cây xà nu chắc khoẻ, dẻo dai. Vừa là nguyên mẫu mang những vẻ đẹp ngoài đời, nhưng Tnú cũng vừa mang những vẻ đẹp của một anh hùng sử thi Tây Nguyên như Đăm Săn, Chi Bri – Chi Brít. Cũng qua tác phẩm và hình ảnh Tnú, tác giả đã nêu lên một chân lí tất yếu thông qua lời phát ngôn của cụ Mết “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó chính là tư tưởng chủ đạo trong đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc ta. Bằng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của dòng máu, tính cách núi rừng Tây Nguyên. Qua đó, Nguyễn Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó khăn, gian khổ, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng. Có thể nói qua thiên truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng Tây Nguyên vốn được koi là vùng đất “rừng thiêng nước độc” với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý. Họ cũng chính là hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời chống Mĩ. CHÚC CÁC EM THI ĐẠT KẾT QUẢ TỐT! Page 2
-Hiệu trưởng: Thầy Phạm Sỹ Liêm ĐT: 0913 43 00 33 -Hiệu phó: Cô Lê Thị Mỹ Nguyên ĐT: 0905 222 711 -Hiệu phó chuyên môn: Nguyễn Thị Thu Hà ĐT: 0905 222 526 CÔNG ĐOÀN: * Chủ tịch Công đoàn: Cô Lê Thị Mỹ Nguyên ĐT: 0905 222 711 * Bí thư Đoàn trường:: Cô Nguyễn Thị Mai Sương ĐT: 0898 162588 Page 3SCHOOL ELECTRONICSFEASIBILITY OF DESIGN AND BENEFITS FOR SCHOOLS, In presidential elections past, Time magazine said that the election of President Barack Obama can not ignore the role of the Internet. That is an important channel that the first black president this communication with the public and achieve victory. It can be said, the use of scientific methods, means and tools of modern technology - mostly computers and telecommunications - to organize and exploitation in all areas of life that has effectively become so popular in the last decade. Vietnam seems people familiar with terms such as electronic newspapers, electronic commerce, electronic games, e-government ... to show the application of Information Technology (Information Technology) in each industry-specific, specific. But since then, many have questioned "why can not education educational electronic form?" Back to the review meeting held on 31/07/2008 academic year 2007-2008 at Hai Phong, Ministry of Education and Training have agreed and decided to take the 2008-2009 school year theme is "In application of IT to improve teaching quality and innovative financial mechanisms to manage the industry. " In essence, this is a policy drawn from many years past, when IT quickly into life and the benefits of experience and it is feasible in schools. Obviously, no one can deny an educational apparatus to operate lacks modern facilities. 1. Vietnam"s advantages Elearning: To recognize that to date, our country"s education in schools, teachers who promoted mainly with white chalk and blackboard. Try to imagine, the teaching of a teacher: from the preparation of lesson plans, teaching assignments, writing table, along with intuitive drawings, video tapes and complicated language ... how, while we have can do it quickly with a computer and a projector Projector. Practical in recent years, many times we invest money and wealth to perform specialized to promote positive student, school construction, equipment supplies in the laboratory, other teaching aids ... However, the quality of education is also high. In particular, for difficult areas such as rural, mountain, island, and the practical benefits remain unanswered. So why do not we find an optimal method can accommodate more students for different regions? And this method is not outside the radius of application of IT in schools. If you look back on the policy of the Ministry of Education and Training, special use of technology is emphasized, but how to do, do not go out clearly in writing. We recommend more strongly to electronic education in the education sector in our country, which is a specific form of E Sermon, electronic lesson plans for all subjects in grade 10, 11, 12 under the current program department. (We do not discuss anything about the two terms are, by GADT, BGDT, or lessons that use modern vehicles are also a matter of controversy, not the consent of the Ministry of Education and Training). In addition, to cater to the needs of exam questions in Mathematics, Physics, Chemistry, Biology, Foreign Languages, as well as tests in most subjects in the class check is 30% and 40% test, we need Bank to form questions to test students regularly use and practice. The effect of this is to solve some problems for the student questions that are not understood and not know about the form and manner as well as skills tests, avoiding common place in recent years when students often expressed confusion about the unit and universal knowledge into the examination room only black cars at random responses. Finally, there should be a review document, outlines the methods work, applied exercises are the solution, suggested exercises, tests, exams and graduate admissions ... 2. The practical benefits from the formation of e-Education: We believe that, if formed, the electronic education students, teachers, parents and society are entitled to some practical benefits as follows: First, e-education creates important step in teaching methods and improve the quality of student learning. Two years ago, in a competition to design a lesson plan scale in Hanoi, the Jury had agreed to receive the most important step in renewing teaching methods are "100% of the information taught in the Assembly implement all IT applications. " We do not deny the traditional methods, but methods of presentation, lecture, exam time, students must listen passively, not to create situations to create pedagogical point for all items, even knowledge can quickly fade in the minds of children. With electronic lecture, students received knowledge in different channels. Moreover, to reappear at any knowledge, students only need to click the entire lecture the teacher will appear. Second, electronic lecture presented by the file (the file) of the Power Point, Violet, ... is presented beautifully, creating a deep impression. The colors, images, sounds, videos, map illustration, excitement ... and help them to quickly absorb. Hours of passive, pure read copy no longer exists, instead, they must really work, promoting a positive and proactive. No longer the timid attitude, shy in front of a collective, not the abstract concept much effort to explain, time-consuming illustration; so, the activities of teachers and students will be held full and exciting rhythm. Information such an instruction was not a more successful teaching the good news reached back? Thirdly, with electronic education, teachers have many advantages in organizing student study groups, this is an excellent method of educating a 21st century Vietnam, where the advanced countries in the world are using to teach students, the education of our country urgently needs this method of learning in groups. Fourth, if given lectures on the Internet through the Website e will save time and erasing the gap space. By simply visiting the website, on any day or night, students can still access the necessary information content. Moreover, children from urban, rural, mountain, island ... to any region in the world also have access to additional training for the desire to explore and understand the customer knowledge inherently due to the lack of spatial distance. Of course, in the near future, the Internet will become familiar with all the country will realize all these things. Fifth, e-Education will expand a number of objects to communicate, not only students and teachers but also parents and society as a whole. Parents simply go online to check the results of your child"s learning, teachers can use to prepare lesson plans at home, managers can use to direct specific, effective, edit temporary shortcomings ... Sixth, students are free to use, avoid going to learn, solve a painful problem that the education sector and society may find a way. Seventh, e-Education is a savings to the State budget through the reduction of the textbooks, exercise books, especially reference books, not to mention equipped library, laboratory equipment experience for students as e-lectures can replace a large proportion of experiments, the first book. Vietnam education could follow the world of education, when schools, families and society really know IT holds the key. 3. Da Nang, Quang Trung High School has implemented electronic education like? 3.1. Implement the policy of MOET to IT in secondary schools in the 2009-2010 school year, Quang Trung High School has built 27 classrooms equipped with IT equipment: a projector, computer and other tools Support systems such as speaker, microphone, DVD player, to not only put casset IT into schools, but also bringing IT into every classroom. Internet brought to each class. 3.2. Board to direct teachers write lesson plans, electronic bank multiple choice questions, review documents, the test subject, topic and has taught, has a daily show in class. Also, put up Web page: thptquangtrung.vn to many users. In the first semester, the school has developed nearly 600 e-teaching and plan to write more in the second semester to complete basic e-teaching high school level USING ELECTRONIC LIBRARY OF DA NANG schools QUANG TRUNG1. The formation of an electronic library of Quang Trung High School: Long, and the managing board of the Council of Education has established guidelines of the Electronic Library with the following contents: + About the IT department office schools QuangTrung + Community portal + Banking choice questions + Document review + To test, exam Currently, the school had completed their programs and upcoming Semester I will be uploading 12 subjects: Mathematics, Literature, Physics, Chemistry, Biology, Technology, History, Geography, citizenship education, English, Education career. In the time comes, the program will continue to compose Semester II and soon tried to put online for students to use time as PPCT division of the Ministry of Education and Training. 2. Using electronic library: - Click on an electronic library, the content will appear above 5. - Click on e-teaching, will appear on-screen list of 12 subjects - Click on a specific subject, turn on the screen will display the name of the lecture. Lecture appears as a static pdf files, animated files ppt, pps (Power Point), support programs such as Violet ... - Find the appropriate buttons to slide lectures on the full screen. Here, just click the left mouse button, the content turns out to be used. When the lecture, right click and click End Show or press Esc to exit. Users can read by clicking the Open button, or saved to your computer by clicking Save. 3. The Bank uses multiple choice questions, review documents or tests also do the same. 4. The use of the free, unimpeded like to have an account, password, register, ... In the spirit of "selfless", we would like to use some image image support and a portion of what we consider to be useful, some unique authors posted on the Internet. Hope you understand, and ignore as you see we are bringing together the mind of the people"s teachers to serve students, the education service. Page 4Ban Giám hiệu:Hiệu trưởng: Phạm Sỹ Liêm Hiệu phó: Lê Thị Mỹ Nguyên, Nguyễn Thị Thu Hà Bí thư Chi bộ: Nguyễn Văn Nghĩa Bí thư Đoàn trường: Trần Thị Lệ Quỳnh Page 5
4:06 New CÁC TÀI LIỆU VỀ VUA QUANG TRUNG: VIDEO, BÀI VIÊT,... Nhảy sạp trong Ngày Hội Văn Hóa dân gian 2017 https://i.ytimg.com/vi/DfvQLoG4ZAk/hqdefault.jpg?sqp=-oaymwEZCNACELwBSFXyq4qpAwsIARUAAIhCGAFwAQ==&rs=AOn4CLCiN6YQV9rsaFDKNFCh1cVqV0lMPg 1) Quang Trung Hành Khúc 2) Quang Trung Hành Khúc (phần nhạc) 3) Quang Trung Hành Khúc (Đội văn nghệ Đoàn trường 11/2009) 4) Tiết mục của học sinh trường THPT Quang Trung Đà Nẵng đoạt huy chương vàng trong Liên Hoan Tuổi Trẻ Trung Học Phổ Thông của các trường THPT thành phố Đà Nẵng tháng 11 năm 2009 - Nhảy Hip-Hop
5) Tam ca "Chiếc lá" do cựu hoc sinh Quang Trung Đà Nẵng trình diễn trong lễ kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt nam 20/11/2009
6) Tiết mục múa của lớp 10B9 trình diễn trong lễ kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt nam 20/11/2009 7) Tiết mục văn nghệ trong lễ kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2009 - Nhảy Hip-Hop 2 8) Tiết mục văn nghệ trong lễ kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2009 - Đơn ca: Mẹ Yêu - My Chau 9) Báo tường 12B7 trường THPT Quang Trung Đà Nẵng kỷ niệm 27 năm ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2009 Page 6Page 7Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: Page 8Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: Page 9Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: Page 10Điện thoại : 0511.3691445 - 0511.3656697 * Email: |