Nhân đình về nghệ thuật xây dựng tình huống truyện

I. Mở bài 

- Giới thiệu tác phẩm

- Giới thiệu vấn đề: “Chiếc thuyền ngoài xa” đã sáng tạo ra một tình huống nghịch lý, oái oăm, trớ trêu.. Bởi nhờ tình huống này mà tính tư tưởng của tác phẩm mới được thể hiện rõ.

II. Thân bài

1. Một là, nghịch lý giữa đời sống và nghệ thuật.

- Cả một tập thể nghệ sĩ nhiếp ảnh trong “dăm tháng” trời đã chụp được “hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu …”, được ông Trưởng phòng “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến” đánh giá là “đẹp thì đẹp thực … và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật”. Thế mà, cũng chính vì Trưởng phòng thông minh này lại “không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ”. Thì ra người nghệ sĩ dù có cố gắng bao nhiêu, nỗ lực bao nhiêu, đầu tư nhiều thời gian, bỏ ra nhiều tâm huyết và trí tuệ bao nhiêu cũng chưa thể đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống. Người nghệ sĩ không bao giờ được thoả mãn, phải luôn coi mục đích nghệ thuật luôn ở phía trước để phấn đấu. Đây có thể coi là thông điệp nghệ thuật thứ nhất của nhà văn.

2. Hai là, nghịch lý giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng trữ tình và di hoạ chiến tranh.

- Cái bờ biển ấy , nó “thật là thơ mộng”, “thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu …”, thế nhưng lại có “những bãi xe tăng do bọn thiết giáp nguỵ vứt lại trên đường rút chạy hồi “tháng ba bảy nhăm” [bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước gặm mòn và làm cho sét gỉ]…”. Chi tiết này ít nhất cũng mang ba dụng ý nghệ thuật sau:

+ Thứ nhất, nó nhắc nhở người nghệ sĩ đừng bao giờ quên cái nghịch lý của đời sống. Nghệ thuật không chỉ ở cảnh đẹp thơ mộng mà còn ở cả cái hiện thực sần sù gai góc kia.

+ Thứ hai, để bạn đọc khỏi ngỡ ngàng nó như là một sự báo hiệu đưa dần bạn đọc vào chủ đề chính thể hiện ở những tình huống nghịch lý căng thẳng dữ dội hơn.

+ Thứ ba, nó nhắc khéo bạn đọc bối cảnh ra đời của câu chuyện là chưa xa một thời chiến tranh [chú ý một chi tiết nhỏ “sau gần mười năm”]. Mà chiến tranh bao giờ cũng đi liền với sự mất mát, đau thương nên di hoạ, cả ở phương diện vật chất và phương diện tinh thần vẫn còn tồn tại dai dẳng. Do vậy, những điều gì xấu, phi nhân tính được đề cập ở phần sau của câu chuyện cũng không có gì lạ.

3. Ba là, nghịch lý giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” và cảnh con người lam lũ, vất vả, khổ đau.

- Phải đến lần thứ năm Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”: “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”.

- Phải có một bút lực mạnh mẽ, một sự am hiểu sâu sắc về hội hoạ, một sự nhạy cảm trước cái đẹp mới có thể viết nổi đoạn văn miêu tả “cái đẹp tuyệt đỉnh”, “toàn bích” này. Câu đầu là ước lệ, là cảm nhận chung “một bức tranh mực tàu …”. Các câu sau là những hình ảnh cụ thể với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, vài bóng người cả người lớn lẫn trẻ con, rồi những cái mắt lưới và tấm lưới … Cảnh thật huyền ảo [bầu sương mù trắng như sữa], tinh khôi, tinh khiết [màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào], vừa tĩnh tại [im phăng phắc], vừa sống động [hướng mặt vào bờ]. Các tính từ láy loè nhoè, hồng hồng, phăng phắc, khum khum tăng cường thêm độ huyền ảo, như hư như thực. Các so sánh tinh tế trắng như sữa, im phăng phắc như tượng, y hệt cánh một con dơi làm đậm thêm chất tạo hình của bức tranh. Dường như ngôn từ bất lực trước cái đẹp, nhà hoạ sĩ buộc lòng phải đưa “cái tôi” chủ quan tham gia vào “quá trình thưởng thức”: “… đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?” Làm cho bức tranh kia nhuốm thêm “sắc màu” tâm trạng.

- Nhưng oái oăm thay, nghịch lý và trớ trêu thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất!

+ Đó là tiếng quát của gã ngư phủ: “Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

+ Đó là “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ..”.

+ Đó là một gã đàn ông “mái tóc như tổ quạ … chân đi chữ bát …hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”

+ Chưa hết, tiếp theo là cảnh hành hung đánh đập, phi nhân tính rùng rợn: “Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay gắt, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két …”

Khát vọng tìm đến cái đẹp để mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng người nghệ sĩ phải tỉnh táo để nhận ra cái thực tế phũ phàng của đời sống. Và đây cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: hãy tỉnh táo trước cái đẹp. Bất cứ cái đẹp nào cũng rất có thể ẩn chứa những điều phức tạp đi ngược lại hạnh phúc của con người. Cái tình huống nghịch lý này trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan màn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh tuyệt đẹp kia để làm trơ ra cái sự tàn nhẫn của đời thường. Người nghệ sĩ không chỉ nhận thấy cảnh đẹp lãng mạn bên ngoài kia mà còn phải nhìn thấy cả cảnh hành hạ man rợ của lão ngư phủ nọ. Đây là bài học, là trách nhiệm, cũng là lương tâm của nghệ thuật.

- Nhà văn đã sử sụng nguyên tắc nghịch lý, đối lập trong xây dựng nhân vật: cái tốt cái xấu lẫn lộn, đan cài với nhau.

+ Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng vẫn không chịu “chia tay” với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời giãi bày gan ruột của người mẹ đáng thương ta mới thấy bà có một tấm lòng hi sinh vô bờ “ … đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”.

+ Còn gã đàn ông kia cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Theo lời vợ lão thì đó “ là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập..” . Vẫn theo lời vợ lão thì là do lão “khổ quá” vì làm ăn nuôi con. Rồi đói, khi “ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối… ”. Trước sau thì hắn vẫn là người lao động lương thiện, hơn nữa lại là lao động chính, kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt của mình để nuôi mười mấy miệng ăn. Lão đánh vợ để giải toả những bức bối. Ta hãy để ý khi đánh vợ lão cũng đau đớn “Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Lão cũng không phải là kẻ hiếu chiến, không phải là kẻ chỉ thích gây gổ đánh đấm người khác, bằng cớ là ngay Phùng cũng khẳng định “lão đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ”.

+ Còn thằng Phác đứa trẻ sớm lam lũ lao động, hồn nhiên và rất thương mẹ… Bên cạnh những phẩm chất ấy trong nó cũng ẩn chứa một tính côn đồ nguy hiểm : sẵn sàng cầm dao đâm bố để cứu mẹ. Nó sớm đã có ý thức báo thù bằng cách lấy bạo lực để ngăn cản bạo lực.

Như vậy, nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài xa được cấu trúc với tất cả sự phức tạp của nó, không hẳn xấu cũng không hẳn là kẻ tốt. Xét đến cùng lão chồng vừa là thủ phạm gây ra cảnh đau đớn cho người vợ, cho con đẻ đồng thời cũng lại là nạn nhân của cuộc sống còn tăm tối khốn khổ. Người vợ cũng vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm, mà theo chính lời mụ thì là do “cái lỗi…là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Thằng Phác cũng thế, vừa là nạn nhân của thói côn đồ lại vừa là thủ phạm kích động thói côn đồ và chính nó cũng sớm có tính côn đồ. Những nhân vật đó chưa mang chiều kích của nhân vật tính cách với những quá trình phát triển tâm lý nhưng nó đã làm tốt chức năng thể hiện chủ đề tác phẩm.

III. Kết bài

- Khái quát các ý chính

- Nhận xét đánh giá về nghệ thuật xât dựng tình huống của Nguyễn Minh Châu.

 Loigiaihay.com

Xây dựng tình huống truyện trong tác phẩm văn học

1. Tình huống truyện là gì?

Tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó hoặc chịu đựng.

Tình huống truyện là hoàn cảnh bất bình thường mà con người buộc phải bộc lộ bản lĩnh, tính cách của mình. Trong tác phẩm tự sự tình huống có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện số phận và tính cách nhân vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là chìa khóa khi khám phá tác phẩm.

Đặc trưng của truyện ngắn là cốt truyện và thông thường cốt truyện bắt đầu từ những sự kiện có vấn đề, đó là tình huống. Chính ở đó, nhà văn bộc lộ tài năng của mình. Nói cách khác, tình huống chính là một lát cắt của cuộc sống, là vực xoáy trên dòng sông, tình huống gắn liền với cốt truyện và chủ đề tư tưởng tác phẩm
Đê tiêp cận tình huống truyện, không thể không nhìn nhận trên những khía cạnh căn bản sau đây:

Về bản thế:

Tình huống truyện, xét đến cùng, là một sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo trong tác phẩm theo loi lạ hoá.

Nói cách khác chính nhà văn đã làm sống dậy trong sự kiện ấy một tình thế bất thường của quan hệ đời sống [quan hệ giữa các nhân vật tham gia vào sự kiện, hoặc giữa nhân vật với ngoại giới]. Tại sự kiện ấy bản chất của nhân vật hiện hình sắc nét, đồng thời ý tưởng của tác giả cũng bộc lộ trọn vẹn. Từ đó có thể đúc kết: Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ đời sống.

Tình huống truyện có những nét gần giống với đỉnh điểm và hoàn cảnh điển hình trong tác phẩm. Song, đó là ba khái niệm hoàn toàn khác nhau.

+ So với “đỉnh điểm”, tình huống truyện vừa có điểm tương đồng vừa có điểm dị biệt. Đỉnh điểm là một khâu của hệ thống cốt truyện. Nó chỉ được coi là “đỉnh điểm” trong quan hệ với các khâu còn lại như giới thiệu, thắt nút, phát triển và cởi nút. Nó là cái “đỉnh chót” của hàng loạt sự kiện và biến cố dệt nên cốt truyện. Còn “tình huống” lại là cái sự kiện bao trùm lên toàn bộ một tác phẩm truyện ngắn. Trong tình huống dường như có đủ các khâu của cốt truyện nhưng dưới dạng đã được nén lại.

+ So với “hoàn cảnh điển hình”, tình huống truyện vừa rộng hơn vừa hẹp hơn. Rộng về diện hoạt động. Nếu “hoàn cảnh điển hình” là khái niệm chỉ nhất thiết tồn tại trong một phạm trù văn học là “văn học hiện thực”, thì “tình huống truyện”, với tư cách là hạt nhân của một thể loại, lại có mặt ở mọi phạm trù văn học. Còn hẹp về qui mô. “Hoàn cảnh điển hình” thường được tạo dựng từ hàng loạt sự kiện với một khung cảnh xã hội rộng dài, thì tình huống chỉ là một “khoảnh khắc”, một “lát cắt”, thâu tóm vào khuôn khổ mộ sự kiện nhỏ và trọn vẹn nào thôi. Nêu nhìn từ tương quan với hoàn cảnh cũng có thể định nghĩa : tình huống là sự cô đặc của một hoàn cảnh điển hình nào đó.

Về vai trò:

ình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa là nó quyết định đến sự sống còn của một truyện ngắn. Hãy nhìn vào hai dạng biến động cơ bản về qui mô của truyện ngắn :

a] dạng mở rộng : khi một truyện ngắn có đến hai sự kiện “tranh nhau” đóng vai trò hạt nhân, vai trò quán xuyến, thì truyện ngẳn đang “vươn vai” thành truyện dài .

b] dạng giản lược : khi một truyện ngắn co mình lại trong một số chữ hạn định để thành truyện cực ngán, truyện mini, thì có thể thấy các thành tố khác của truyện như nhân vật, cảnh vật, lời trần thuật có thể giảm thiểu đến kiệt cùng, còn cái mà nó quyết giữ chính là tình huống. Mất “tình huống” nó có thể thành tản văn, thành tuỳ bút, thành thơ văn xuôi, thành kí, nghĩa là thành gì gì khác… chứ quyết không thể còn là truyện ngắn. Mất tình huống tức là mất tính cách truyện ngan. Vì thế mà có thê thấy vai trò của nó trong hai tương quan sau :

+ Với văn bản truyện ngắn : nó là nhân tố tổ chức của thiên truyện. Tức là nó bao trùm và chi phối các thành tố khác như nhân vật, cảnh vật, bố cục, kết cấu, lời trần thuật… Nhìn ở chiều ngược lại, những thành tố kia châu tuần xung quanh để làm sống dậy cái tỉnh huống nàv. Diện mạo của một truyện ngắn, xét đến cùng, là do tình huống quyết định.

+ Với người viết truyện ngan : tạo được một tình huống đặc sắc, xem như đã có một tiền đề khá chắc chắn cho thành công của tác phẩm. Nghĩa là, để làm nên một truyện ngắn đầy đặn, người viết còn phải lo nhiều khâu khác như dựng người, dựng cảnh, lo tâm lí, lo đối thoại … như thế nào nữa. Nhưng lo được tình huống rồi thì coi như đã có một hứa hẹn tin cậy. Sáng tạo tình huống truyện là phần việc cốt yếu của lao động truyện ngắn vậy.

Từ đó có thể rút ra phương pháp luận đổi với người đọc truyện ngắn là : bước vào một truyện ngắn cần phải nắm được giá trị của các bình diện nghệ thuật cấu thành cái thực thể sinh động là truyện ngắn. Nhưng nếu chưa nắm được tình huống thì coi như chưa nắm được chiếc chìa khoá vàng để mở vào thế giới bí ẩn của truyện ngắn ấy.

2. Phân loai truyện ngắn theo đặc trưng tình huống truyện:

Từ quan niệm về tình huống, có thể có cách phân loại truyện ngắn sau đây :

Về tính chất, có thể thấy truyện ngắn có ba dạng chính, bởi chứa đựng ba dạng tinh huống truyện căn bản :

Tình huống hành động:

Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế [thường là éo le] chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống này :hường hướng tới một kiểu nhân vật: Nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật chủ yếu lược hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện : truyện ngắn giàu kịch tính. Thậm chí mỗi thiên truyện, ở dạng rõ nét nhất, có thể coi như một màn kịch, một vở kịch ngắn trong y phục văn xuôi [Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là một trường hợp tiêu biểu].

Tình huống tâm trạng:

Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là : Con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó, nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng một hệ thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng. Còn các khía cạnh khác [như ngoại hình, hành động, lí tính…] ít được quan tâm. Và vì thế, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện. Đặc trưng thể loại này là truyện ngắn trữ tình [Truyện ngắn Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Thanh Châu, nhất là Thạch Lam nghiêng về dạng này].

Tình huống nhận thức:

Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường : đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề [về nhân sinh, về nghệ thuật] cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là ’.nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lí tính của nó. Chất liệu cơ bản đế dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lí, đúc kết, chiêm nghiệm, toan tính v.v… Mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng được nhân vật hoá vậy.

Diện mạo của loại truyện ngắn này cũng đương nhiên là nghiêng về triết luận [nhiều truyện ngắn của Nam Cao, và của Nguyễn Khải ở giai đoạn sau này có lẽ nghiêng về kiểu ấy], cần lưu ý, ở những trường hợp cực đoan, nó có thể là truyện ngắn luận đề.

Tuy nhiên, sự phân loại này là tương đối. Trong thực tế, các dạng ấy đều ít nhiều có tính pha tạp chứ không hoàn toàn”thuần chủng” như mô tả. Viêc nhận diện chỉ dựa vào sự nổi trội của yếu tố nào đó.

Về số lượng, có thể thấy truyện ngắn có hai loại :

Truyện ngắn chỉ có một tình huống:

Cả truyện ngắn chỉ xoay quanh có một tình huống duy nhất bao trùm. Có thể nói đây là loại truyện ngắn điển hình.

Truyện ngắn có nhiều tình huống đan xen nhau:

Cả thiên truyện được dệt từ nhiều tình huống. Tuy nhiên, trong đó, chúng cũng phân vai thành chính – phụ [nghĩa là có cái nào đó là chủ chốt] chứ không phải tất cả đều ngang hàng nhau, theo lối dàn đều. Đây là dạng truyện ngắn không thật điển hình. Chúng thường có dáng dấp của một truyện dài thu nhỏ, hơn là một truyện ngắn thực thụ [trong chương trình cấp ba, có thể ví dụ : Chí phèo của Nam Cao, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Mùa lạc của Nguyễn khải, Tướng về hiru của Nguyễn Huy Thiệp…]

Từ chỗ coi tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn, có thể thấy rằng thực ra, về phân loại chỉ có truyện ngắn và truyện dài. Không có cái gọi là truyện vừa. Bởi việc phân định ra truyện vừa chỉ dựa vào có một tiêu chí rất phụ là độ dài trung bình của văn bản truyện mà thôi.

3. Phương pháp tiếp cận tình huống:

Từ những nội dung lí thuyết trình bày trên đây, ít nhất có thể rút ra những ý nghĩa phương pháp luận đối với việc tiếp cận sau : với người đọc, bước vào một truyện ngắn tuy không thể bỏ qua việc phân tích tìm hiểu các thành tố khác cấu thành cái thực thể sinh động là truyện ngán [như nhân vật, cảnh vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ…]. Nhưng nếu chưa nắm được tình huống thì coi như chưa nắm được chiếc chìa khoá quan trọng nhất để mở vào thế giới bí ẩn của truyện ngắn ấy. Đọc vào truyện ngắn thì điều tối quan trọng là phải đọc cho ra tình huống truyện của nó.

Có thể hình dung về qui trình tiếp cận tình huống với các bước chính như sau :

Bước 1. Xác định tình huống truyện :

Đặt câu hỏi : Sự kiện nào bao trùm và chi phối toàn bộ thiên truyện này ? Hay Sự kiện bao trùm nào đã giúp tác giả dựng lên toàn bộ truyện ngắn này ?…

Tổng hợp các tình tiết: Lướt qua những tình tiết chính và xác định : một trong các tình tiết ấy đóng vai trò bao trùm, chi phối quán xuyến toàn truyện, hay chúng chỉ là những thành tố nối kết với nhau để làm thành một sự kiện lớn hơn, sự kiện ấy mới trùm lên tất cả ? Đáng chú ý nhất ở đấy là cái tình thế bất thường nào đó mà chúng chứa đựng.

Tìm tên gọi dế dịnh danh. Đây là khâu khá then chốt, chưa tìm được tân thích hợp thì xem như tình huống vẫn còn nằm ngoài tầm tay của ta vậy.

Bước 2: Phân tích tình huống, cần tiến hành phân tích các bình diện cơ bản sau đây :

– Diện mạo của tình huống [bình diện không gian]

– Diễn biến của tình huống [bình diện thời gian]

– Mối liên kết của tình huống với các khâu khác của tác phẩm [chi phối đến tồ chức hình thức của văn bản nghệ thuật truyện ngắn]

Bước 3: Rút ra ý nghĩa của tình huống: Tức là rút ra cái thông điệp thẩm mĩ mà tình huống chứa đựng

– Về quan niệm : Toát lên quan niệm gì về nhân sinh, thẩm mĩ ?

– Về cảm xúc : Chứa đựng cảm xúc chủ đạo gì ? ví dụ minh hoạ

a. Loại truyện ngắn điển hình với một tình huống. Có thể phân tích 3 ví dụ :

Ví dụ 1 : Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân : Tình huống hành động – kiểu nhân vật hành động – truyện ngắn giàu kịch tính.

Ví dụ 2: Hai đứa trẻ của Thạch Lam : Tình huống tâm trạng. Kiểu nhân vật tình cảm – dạng truyện ngắn trữ tình ;

Ví dụ 3: Đôi mắt của Nam Cao : tình huống nhận thức – kiểu nhân vật tư tưởng – dạng truyện ngắn triết luận ;

b] Loại truyện không thật điển hình : với nhiều tình huống.

Phân tích hai ví dụ.

Vd1 : Truyện ngắn Chí phèo của Nam Cao.
Vd2 : Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

Video liên quan

Chủ Đề