Niềm hoài cổ trong bài thơ ông đồ

I, MB: Giới thiệu VĐNL

II, TB 

 1, Lòng thương người: phân tích khổ thơ 2

– Ông đồ, cái di tích tiều tụy, đnags thương của một thời tàn trở thành đề tài trong thơ ông

– Lòng yêu mến, kính trọng 1 tài năng đã bắt đầu rơi vào quên lãng

+ Hình ảnh ông đồ già, mực tàu, giấy đỏ đã có phần xa lạ với phố phường đong đúc, nhộn nhịp, vui tươi. 

+ Sự thán phục của tác giả trước tài năng, nét chữ uyển chuyển, mềm mại của ông đồ

-> Ông đồ-hình bóng tượng trung cho giai cấp kẻ sĩ, từ trên chót vót của thứ bậc xã hội rơi xuống lề đường. Chữ thánh hiền một thời được trân trọng, chỉ tặng mà không bán, giờ đây lại trở thành món hàng.Đây không phải những ngày huy hoàng của ông đồ mà đã là những ngày ông đồ trở thnahf di tích, bắt đầu đi vào tàn tạ

*   Sự cảm thông, xót thương trước di tíchtiều tụy đã đi vào thời tàn tạ: K3,4

– Khổ 3: Những người cuối cùng trân trọng tài nghệ của ông đồ cũng không còn nữa. Từ đó, thể hiện sự xót xa, đau đớn của tác giả

– Khổ 4: Ông đồ cô đơn, lạc lõng giữa đất trời

2. Niềm hoài cổ: khổ thơ cuối

=> Từ lòng thương một ông đồ rất cụ thể thành nỗi niềm tiếc nhớ, thương xót cho cae 1 lớp người, một nền Nho học hưng thịnh, những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc

III, KB

*Bài viết

Nếu như Thế Lữ dùng thơ để khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của người dân mất nước, thì Vũ Đình Liên lại gợi nhớ về một nét đẹp văn hoá cổ truyền đã mai một, chỉ còn lại nỗi đau khôn nguôi trong lòng người khi nhớ về cảnh cũ. Ông đồ thể hiện thật cảm động những tình cảm đó. Nhận xét về tác phẩm, có ý kiến cho rằng “Hai nguồn cảm hứng tạo nên thi phẩm ông đồ là lòng thương người và niềm hoài cổ “.

Trước hết, đén với bài thơ, ta bắt gặp tình cảm của nhà thơ, lòng thương với những lớp người như ông đồ. Cảm hứng thương người của VĐL là thương cảnh đời của những kẻ đói rét, những người đàn bà sa cơ, những em bé mồ côi nức nở trong cơn mê Tôi muốn nguồn thơ muôn năm không hết/ Để ru ca nỗi đau khổ khôn cùng. (Hối hận).Ông đồ, cái di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn trở thành đề tài trong thơ ông. Lòng yêu mến, kính trọng 1 tài năng đã bắt đầu rơi vào quên lãng được nhà thơ thể hiện qua từng câu, từng chữ. Đó là lời ngợi ca về tài năg của ông đồ: 

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”

Ông đồ với mực tàu giấy đỏ đã trở thành một hình ảnh thân thuộc, là một phần không thể thiếu tạo nên nét đẹp văn hóa cổ truyền của ngày Tết. Hình ảnh ông đồ đã ăn sâu vào tâm thức người Việt. Ở khổ 1, ta thấy hoa và người đồng hiện, soi chiếu, tôn vinh nhau. Mỗi dịp đào nở hoa trước đất trời mùa xuân là mỗi dịp ông đồ trổ tài hoa trước công chúng. Sắc hoa đào rực rỡ hòa với sắc thắm tươi của tờ giấy đỏ. Nếu hoa đào làm cho cảnh sắc mùa xuân thêm rực rỡ, tươi tắn thì ông đồ cùng với mực tàu giấy đỏ lại như một nén hương trầm làm mùa xuân thêm thiêng liêng, ấm cúng. Ông đồ tài hoa: được thể hiện qua biện pháp so sánh và thành ngữ: Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Nét chữ – nét người, nét chữ rồng bay phượng múa – hồn người bay bổng phóng khoáng. Ông đồ là một nghệ sĩ có tài hoa và có tâm hồn. Những chữ của ông trở thành những họa phẩm của nghệ thuật thư pháp. Ông đồ là một hình ảnh trung tâm làm nên nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc được mọi người mến mộ. Ở đây, ta thấy sự hòa hợp giữa hoa đào – ông đồ – công chúng cũng chính là sự hòa hợp giữa thiên nhiên – con người – thời thế. Đoạn thơ đã tái hiện một nét đẹp văn hoá, một thú chơi tao nhã mà thanh lịch.  Ẩn đằng sau câu chữ là sự quý trọng ông đồ, quý trọng một nếp sống văn hoá của dân tộc.

Thời thế đổi thay, hoàn cảnh thay đổi, ông đò dường như chìm vào quê lãng. Đến đây, sự cảm thông, xót thương trước di tíchtiều tụy đã đi vào thời tàn tạ của tác giả trào ra qua từng vần thơ: 

Nhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Hình ảnh ông đồ khi thất thế trong 2 khổ thơ đã gợi lên biết bao cảm xúc trong lòng người đọc. Nếu như trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế, họ kính trọng ngưỡng mộ ông như thế nhưng hiện tại, họ lại đi đâu hết. Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật  nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một.  Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. “Người thuê viết nay đâu” đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng băn khoăn cũng như nỗi buồn của tác giả trước sự thay đổi của con người, mùa xuân vẫn đẹp như thế, nhưng con người nay đã không còn quan tâm đến nét đẹp văn hóa xưa.Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong nghiên. Biện pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ.Ông  đồ vẫn như năm nào, trung thành với cây bút “vẫn ngồi đấy” chỉ có điều rằng nhân tình đã đổi thay, không còn ai chú ý đến ông thậm chí phớt lờ sự tồn tại của ông. Cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Là mưa của đất trời giăng giăng hay là nỗi giá rét và buốt lặng trong tâm hồn con người. Khung cảnh quanh ông đồ cũng chứa đựng nỗi buồn “lá vàng rơi trên giấy/ngoài trời mưa bụi bay” nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh vật mùa xuân cũng trở nên tàn tạ, buồn theo nỗi buồn của con người, quả là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Qua hai khổ thơ nói riêng cũng như cả bài thơ nói chung,  tác giả thể hiện nỗi niềm xót thương đối với ông đồ cũng như niềm tiếc nuối cho sự mất đi của một nền văn hóa dân tộc.

Như vậy, ông đồ-hình bóng tượng trung cho giai cấp kẻ sĩ, từ trên chót vót của thứ bậc xã hội rơi xuống lề đường. Chữ thánh hiền một thời được trân trọng, chỉ tặng mà không bán, giờ đây lại trở thành món hàng.Đây không phải những ngày huy hoàng của ông đồ mà đã là những ngày ông đồ trở thnahf di tích, bắt đầu đi vào tàn tạ.

Không những thế, làm nên thi phẩm còn là nièm hoài cổ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Vũ Đình Liên cảm nhận ngày xưa qua sự nuối tiếc những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đang bị nhạt phai “nay biết tìm đâu” (Hồn xưa), những văn miếu cổ “rêu phủ lối mòn” (Văn miếu cổ) hay nàng Mỵ Ê cô đơn giữa “cảnh điêu tàn nước non Chiêm”. Lòng ta là hàng thành quách cũ/ Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa. Đến Ông đồ:

Năm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Khổ cuối bài thơ đã cho thấy nỗi nhớ tiếc ngậm ngùi của nhà thơ đối với cảnh cũ người xưa gắn liền với một nét đẹp văn hóa cổ truyền dân tộc. Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn, nhưng người thì không thấy nữa: “Không thấy ông đồ xưa”. Kết cấu đầu cuối tương ứng, Tứ thơ cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh “người muôn năm cũ” gợi lên trong lòng người đọc niềm hụt hẫng, cảm thương, tiếc nuối vô hạn. Ông đồ xưa không phải là cụm từ thay thế ông đồ già. Già là khái niệm về tuổi tác, xưa là khái niệm về thời gian, giữa hai tên gọi đó là cả một khoảng cách về thời đại. Ông đồ hoàn toàn vắng bóng, trở thành những con người của một thời quá vãng. Hai câu cuối gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ sâu xa, thể hiện niềm tiếc nuối, xót xa của tác giả. Hồn” ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh hồn của nét sinh hoạt văn hoá truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của con người Việt Nam hàng trăm nghìn năm. Câu hỏi như 1 sự khắc khoải kiếm tìm. Hỏi nhưng không phải để hỏi mà la để tự vấn để  thể hiện nỗi lòng ân hận của cả một thế hệ đã bỏ quên những giá trị văn hóa tinh thần thiêng liêng, đẹp đẽ.  Đó cũng là một khát khao gọi về những giá trị tinh thần đã bị bỏ quên. Cảm hứng hoài cổ của tác giả chính nuối tiếc những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc nay bị tàn tạ, lãng quên. Từ lòng thương một ông đồ rất cụ thể thành nỗi niềm tiếc nhớ, thương xót cho cae 1 lớp người, một nền Nho học hưng thịnh, những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

Giá trị nhân văn của tác phẩm ở chỗ góp phần vừa khẳng định giá trị vĩnh hằng của nét đẹp văn hóa dân tộc vừa như lời tự vấn, là nỗi ân hận của thế hệ sau vì đã vô tình quên lãng nó. Những câu thơ vang lên như tiếng gọi hồn, chiêu tuyết những ông đồ.  Đó cũng chính là tinh thần dân tộc và tấm lòng yêu nước kín đáo.

Có những người cả sự nghiệp cầm bút chỉ thực sự sáng tác và lưu danh với một tác phẩm nhưng đó là sự kết tinh đẹp đẽ nhất mà họ có được. Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồ là một trường hợp như thế. "Hai nguồn thi cảm lớn nhất của người là lòng thương người và tình hoài cổ. Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: Ông đồ". Hoài Thanh đã đã nhận xét như thế trong "Thi nhân Việt Nam". Nói như vậy nghĩa là Vũ Đình Liên cũng viết về những đề tài quen thuộc cùng nhiều thi sĩ thơ mới khác như thiên nhiên, tình yêu...Nhưng thơ ông chủ yếu bắt nguồn từ tấm lòng nhân ái yêu thương những con người khốn khổ bên cạnh mình, bắt nguồn từ nỗi niềm hoài cổ thâm trầm, u tịch. Ông đã viết nên kiệt tác ông đồ từ cả hai nguồn thi cảm vốn riêng biệt ấy. Nhận định trên hoàn toàn xác đáng. Trước hết, "Ông đồ" là bài thơ dạt dào tình thương. Hai khổ thơ đầu tả lại khung cảnh xưa, thời chữ Nho còn được trọng vọng với "thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài". Góc phố ông ngồi thật đông vui nhộn nhịp, tràn ngập không khí hân hoan khi Tết đến xuân về. "Mỗi năm .... Lại thấy...". Bên cành đào sự xuất hiện đều đặn của ông như đã trở thành một thông lệ quen thuộc, tất yếu của ngày xuân trong tâm trí mỗi người. Nhưng "mỗi năm mỗi vắng" . Hình ảnh tươi vui người người đến mua chữa dần dần phai lạt. Quanh ông đồ giờ đâu phải là sự mến mộ và quý trọng mà chỉ còn nỗi xa vắng mênh mông. Một câu hỏi tu từ buồn bã cất lên trong lòng tác giả: "Người thuê viết nay đâu?". Sao mà ngẩn ngơ, mà ngậm ngùi thương cảm đến vậy. Nỗi niềm ấy truyền sang cả những vật vô tri vô giác: "Giấy đỏ buồn không thắm - Mực đọng trong nghiên sầu". Các động từ "đọng" và "không thắm" mang lại một âm sắc sầu não, chán chường. Nghệ thuật nhân hóa càng gợi lên sự cô đơn hiu hắt của ông đồ. Giấy hồng điều, mực Tàu là nhũng thứ hết sức thân quen và gắn bó với các nhà Nho, nay chịu chung cảnh bơ vơ khi đạo Khổng tàn lụi. Những tình cảm trong câu thơ thật chân thành và sâu sắc. Vũ Đình Liên chỉ cảm nhận nỗi buồn thuơng não nề ấy hay phải chăng ông đã nhờ giấy mực nói hộ cho lòng mình ? Lời thơ tưởng chỉ là một câu chuyện kể trầm lắng nhưng nén đọng một tiếng thở dài đến não lòng. Tuy nhiên, đến khổ thơ thứ tư thì nhà thơ đã phải chua xót thừa nhận: "Ông đồ vẫn ngồi đó, qua đường không ai hay...".Ông chỉ còn là cái bóng âm thầm lặng lẽ trên hè phố trong sự thờ ơ của người dời. Ông đã biến mất, đã không còn tồn tại dưới con mắt nhân gian. Họa chăng nỗi đau của ông tỏa được đến không gian xung quanh: "Lá vàng rơi trên giấy, ngoài trời mưa bụi bay". Những tờ giấy ngày nào in nét chữ " Như phượng múa rồng bay" giờ chỉ còn lá rụng. Chiếc lá vàng sao buồn thế ! Hình ảnh của nó trong mùa xuân của lộc non chồi biếc cũng lạc lõng như bản thân ông đồ vậy. Thiên nhiên, thời gian, con người đều trong trạng thái "động". Riêng mọi thứ về ông đều gắn với "ngưng đọng" và nhòa dần đi trong làn mưa bụi lạnh lẽo thê lương. Khổ thứ tư được tác giả phối hợp các dòng thơ có nhiều thanh bằng và cách hiệp vần rất chỉnh của thể thơ ngũ ngôn nên đã diễn tả được nhạc điệu buồn thương ngân vang dàn trải. Hẳn Vũ Đình Liên phải có một tâm hồn đầy chia sẻ và cảm thông, thậm chí là đồng điệu với nhân vật trữ tình của tác phẩm mới có thể viết nên những câu thơ có hồn như vậy. Vòng tuần hoàn Vĩnh cửu của thời gian cứ lạnh lùng lặp lại song đời người thì hữu hạn. "Năm nay đào lại nở, không thấy ông đồ xưa". Ông đã vĩnh viễn biến mất. Chỉ còn nhà thơ với nỗi thảng thốt và khắc khoải ngậm ngùi. Vũ Đình Liên không còn nén nổi nước mắt dưới lời thơ tự sự nữa mà nỗi đau đã tràn lên câu chữ: "Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?" Nhà thơ tự hỏi chính mình trong nỗi xót xa âm thầm. Âm hưởng của lời thơ không chỉ có xót thương một số phận con người mà rộng hơn, là thương cho cả một lớp người: các nhà nho danh giá xưa kia, nay bị lãng quên trong dòng chảy cuộc đời. Đọc những vần thơ như vậy nên chúng ta sao có thể dửng dưng không chút rung dộng ? Một thi phẩm bình dị mà cảm động biết bao ! Từ hơn hai nghìn năm nay, đạo Nho đã thực sự thành một phần quan trọng không thể phủ nhận trong văn hóa, xã hội và nhất là nền thơ ca trung đại nước Việt ta. Nó đã đồng hành với dân tộc ta qua bao thăng trầm của lịch sử. Chữ Nho và đạo Nho được thừa nhận là văn tự, là đạo học chính thức trong thi cử, trong tất cả văn bản quan trọng của triều đình. Cơ sở xã hội và thể chế nhà nước, thậm chí cả những chuẩn mực đạo đức con người cũng được xây dựng từ nền tảng Khổng giáo.  Những tưởng chúng ta sẽ không thể từ bỏ những gì đã ăn sâu bén rễ trong tâm thức bao thế hệ dân tộc. Nhưng đầu thế kỉ XX, làn gió "Văn minh Âu hóa" ồ ạt thổi tới từ nước Pháp xa xôi đã thay đổi cả những giá trị cơ bản nhất của đời sống xã hội Việt Nam. Đồng thời chúng ta có chữ quốc ngữ, một thứ chữ của riêng chúng ta, ghi chính xác âm tiết tiếng Việt, dễ học, dễ sử dụng. Tất cả những điều ấy tàn phá thành trì Nho học kiên cố vững vàng cả nghìn năm. Vũ Đình Liên viết tác phẩm "Ông đồ" trong hoàn cảnh ấy, hẳn còn để thể hiện nỗi nhớ tiếc một nền văn hóa xưa. Chính nhà thơ cũng đã cho rằng "Ông đồ chính là cái di tích đáng thương của một thời tàn". Đọc lại toàn bài thờ, ta sẽ thấy điểm nhìn của tác giả vốn ở hiện tại: "Năm nay". Từ hiện thực không còn hình ảnh ông đồ trong ngày Tết, nhà thơ ngược dòng hoài niệm về quá khứ Vàng son trước đây, khi ông đồ còn được ngưỡng mộ và kính trọng rồi xuôi theo tháng năm. mọi người dần thờ ơ và quên lãng ông. Hai câu thơ cuối cùng thể hiện rõ nhất tâm sự hoài cổ ấy: "Những người muôn năm cũ" là ai ? Đó là thế hệ những nhà nho - biểu tượng của nền Nho học vang bóng một thời nay đã trở thành quá khứ xa cũ. "Hồn" là tâm huyết, tài hoa, là tinh thần của họ giờ sót lại nơi đâu ? Nhớ tiếc cả một lớp người, một truyền thống dân tộc, một nền văn hóa. Lòng thương người là nguồn cảm hứng nằm ở bề nổi của bài thơ, nằm ở bề sâu chính là niềm hoài cổ. Nguyễn Nhược Pháp cảm nhận "Ngày xưa" đầy chất thơ duyên dáng hóm hỉnh. Con hổ của Thế Lữ thì chán ghét, căm thù thực tại, nhớ mong một quá khứ oai hùng đầy quyền uy. Chế Lan Viên dựng nên một thế giới Chàm cổ xa hoang tàn, kinh dị và ghê rợn niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên là nỗi nhớ tiếc những truyền thống văn hóa đang phai mờ, là những bi kịch nhẹ nhàng mà sâu sắc" (GS. Đỗ Đức Hiểu). Kết tinh của hai nguồn thi hứng tuyệt vời như thế, "Ông đồ" xứng đáng một kiệt tác ! 

Hoài Thanh quả đã không hề sai khi nói về Vũ Đình Liên và "Ông đồ" trong "Thi nhân Việt Nam" như vậy... Bài thơ khiến bao bạn đọc phải rơi nước mắt cho một số phận, một dấu tích văn hóa lụi tàn, nhưng đồng thời lại thấy chút xót xa ân hận vì chính mình đã từng hắt hủi đạo Nho. May thay, thư pháp Hán tự đang được khôi phục lại nhờ những con người đầy nhiệt huyết. Trong đó, hẳn có không ít người từng là độc giả của "Ông đồ". Tác Phẩm ấy chắc chắn sẽ làm xao xuyến trái tim nhiều thế hệ người Việt Nam.