Phân tích 4 kiểu nhân cách sinh viên

Vấn đề nhân cách và sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm lí học và cũng là “mắt lưới” của cả hệ thống khoa học về con người, vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác, tâm lí học đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về nhân cách như: vấn đề bản chất tâm lí của nhân cách, cấu trúc nhân cách, các con đường hình thành nhân cách…

1. Khái niệm chung về nhân cách

1.1. Nhân cách là gì?

1.1.1. Khái niệm con người, cá nhân, cá tính, nhân cách

– Con người: là thành viên của một cộng đồng, một xã hội, vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Có một định nghĩa về con người được thừa nhận khá rộng rãi là: “Con người là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hóa”. Với quan niệm này, cần nghiên cứu tiếp cận con người theo cả ba mặt: sinh vật, tâm lí, xã hội.

– Cá nhân: Khái niệm cá nhân dùng để chỉ một người cụ thể của một cộng đồng, thành viên của xã hội. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hóa, nhưng được xem xét cụ thể riêng ở từng người với các đặc điểm về sinh lí, tâm lí và xã hội để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác trong cộng đồng.

– Cá tính: Khái niệm cá tính dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lại trong tâm lí [hoặc sinh lí] của cá thể động vật hoặc cá thể [cá nhân] người.

– Nhân cách: Khái niệm nhân cách chỉ bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân với tư cách thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người - người của hoạt động có ý thức và giao lưu.

Nhà tâm lí học Xô viết X.L. Rubinstêin đã viết: “Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những nhân cách xung quanh một cách có ý thức”.

1.1.2. Khái niệm nhân cách trong tâm lí học

Có nhiều cách định nghĩa và quan niệm khác nhau về nhân cách. Ngay từ năm 1949, G. Allport đã dẫn ra trên 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lí học về nhân cách.

Hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lí. Có thể nêu lên một số thuyết sau: Thuyết phân tâm của S. Freud, thuyết siêu đẳng và bù trừ của A. Adler, thuyết lo lắng của K. Horney, thuyết phát huy bản ngã của A. Maslow, thuyết đặc trưng của G. Allport, thuyết nhu cầu tâm lí của H. Murray, thuyết tương tác xã hội của Mead, thuyết cá nhân của R. Sears, lí thuyết nhân cách của nhà tâm lí học Xô viết: A.N. Lêônchiev, A.V. Pêtrôvxki…

– Quan điểm sinh vật hóa nhân cách: coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình thể [Krestchmev], ở góc mặt [C. Lombrozo], ở thể trạng [Sheldon], ở bản năng vô thức [S. Freud] v.v…

– Quan điểm xã hội hóa nhân cách lấy các quan hệ xã hội [gia đình, họ hàng, làng xóm…] để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lí của cá nhân.

Có những quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng, cái đơn nhất của con người, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại, một số quan niệm khác chú ý tính đơn nhất, có một không hai của nhân cách.

Các nhà tâm lí học khoa học cho rằng khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội – lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng người. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách như sau:

– “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” [A.G. Côvaliôv].

– “Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí; quy định của hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội” [E.V. Sôrôkhôva].

Từ những điều trình bày ở trên, có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách như sau: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.

Như vậy, nhân cách là sự tổng hòa không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra bằng hoạt động và các sản phẩm của nó.

1.2. Các đặc điểm cơ bản của nhân cách

Có thể xem xét nhân cách như một cấu trúc tâm lí ổn định, thống nhất, mang tính tích cực và tính giao lưu với tư cách là chức năng xã hội, giá trị xã hội, cốt cách làm nhân cách của cá nhân. Vì thế người ta thường nói đến 4 đặc điểm cơ bản của nhân cách như sau:

1.2.1. Tính thống nhất của nhân cách

Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài của con người. Trong nhân cách có sự thống nhất hài hòa giữa các cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Cấp độ thứ ba xem xét giá trị xã hội của nhân cách ở những hoạt động, ở những mối quan hệ xã hội mà nhân cách gây nên như biến đổi ở những nhân cách khác. Chính vì thế các nhà tâm lí học Xô viết đã viết: “Nhân cách chỉ có thể trong sự thống nhất cả ba bình diện [cá nhân, liên cá nhân, siêu cá nhân] như là sự đại diện lí tưởng của cá nhân trong những cá nhân khác, trong các mối quan hệ của nó với các cá nhân ấy, trong chính bản thân nó như là một đại biểu của cái toàn thể, được khám phá thông qua thực tế xã hội”.

1.2.2. Tính ổn định của nhân cách

Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lí tương đối ổn định, tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Những đặc điểm tâm lí nói lên bộ mặt tâm lí – xã hội của cá nhân, quy định giá trị xã hội làm người của mỗi cá nhân. Vì thế nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc đời cộng đồng, biểu hiện trong hoạt động và mối quan hệ giao lưu của cá nhân trong xã hội. Vì thế các đặc điểm nhân cách, các phẩm chất nhân cách tương đôi khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong thực tế từng nét nhân cách [từng thuộc tính, từng phẩm chất] có thể bị thay đổi do cuộc sống, nhưng nhìn một cách tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn, tương đối ổn định.

1.2.3. Tính tích cực của nhân cách

Nhân cách là chủ thể của hoạt động và gián tiếp, là sản phẩm của xã hội. Vì thế nhân cách mang tính tích cực. Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi nào anh ta tích cực hoạt động trong những hình thức đa dạng của nó, nhờ vào việc nhận thức, cải tạo sáng tạo ra thế giới và đồng thời cải tạo cả chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách. Các nhà tâm lí học cũng chỉ rõ hệ thống nhu cầu của cộng đồng là nguồn gốc và động lực chủ yếu của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện trong quá trình thoả mãn các nhu cầu của nó. Con người không thoả mãn bằng các đối tượng có sẵn mà nhờ công cụ, nhờ lao động con người đã biến đổi, đã sáng tạo ra các đối tượng làm cho nó phù hợp với nhu cầu của bản thân. Mặt khác, con người tích cực tìm kiếm những cách thức, các phương thức thoả mãn các nhu cầu là một quá trình tích cực có mục đích, trong đó con người làm chủ được những hình thức hoạt động do sự phát triển xã hội quy định nên.

1.2.4. Tính giao lưu của nhân cách

Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người, con người sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu quan hệ giao tiếp với người khác, với xã hội. Thông qua giao lưu con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng qua giao lưu mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Qua giao lưu, con người đóng góp các giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội. Một nguyên tắc giáo dục cơ bản là giáo dục bằng tập thể, trong tập thể. Chính nhân cách được hình thành trong mối quan hệ giao lưu và hoạt động cùng nhau, hoạt động tập thể.

2. Cấu trúc tâm lí của nhân cách

Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách:

– A.G. Côvaliôv cho rằng cấu trúc của nhân cách bao gồm: các quá trình tâm lí, các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân.

– Có quan điểm cho rằng nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: nhận thức [bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ], tình cảm [rung cảm, thái độ] và ý chí [phẩm chất ý chí, kĩ năng, kĩ xảo thói quen].

– K.K. Platônôv nêu lên 4 tiểu cấu trúc của nhân cách như sau:

+ Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học [bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi và đôi khi cả những thuộc tính bệnh lí].

+ Tiểu cấu trúc về các đặc điểm của các quá trình tâm lí [cảm giác tri giác, trí nhớ, tư duy…].

+ Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, năng lực…

+ Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin…

– Quan điểm coi nhân cách gồm 4 nhóm thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực [sẽ phân tích ở phần sau].

– Quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm 2 mặt thống nhất với nhau là đức và tài [phẩm chất và năng lực]. Có thể biểu diễn cấu trúc nhân cách theo sơ đồ sau:

Đức [phẩm chất]

Tài [năng lực]

– Phẩm chất xã hội [hay đạo đức – chính trị]: thế giới quan, niềm tin, lí tưởng, lập trường; thái độ chính trị, thái độ lao động.

– Năng lực xã hội hóa: khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo, cơ động, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống xã hội.

– Phẩm chất cá nhân [hay đạo đức tư cách]: các nết, các thói, các “thú” [ham muốn].

– Năng lực chủ thể hóa: khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, khả năng biểu hiện cái riêng, cái “bản lĩch” của cá nhân.

– Phẩm chất ý chí: tính kỉ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết, tính phê phán v.v…

– Năng lực hành động, khả năng hành động có mục đích, có điều khiển, chủ động, tích cực.

– Cung cách ứng xử, tác phong, lễ tiết, tính khí v.v…

– Năng lực giao tiếp: khả năng thiết lập và duy trì quan hệ về người khác.

Gần đây trong một số tài liệu tâm lí học, các tác giả trong nước cho rằng nhân cách bao gồm 4 khối [hay 4 bộ phận] sau:

+ Xu hướng của nhân cách;

+ Những khả năng của nhân cách;

+ Phong cách hành vi của nhân cách;

+ Hệ thống “cái tôi” [cấu tạo ý thức] – hệ thống điều khiển điều chỉnh hành vi của nhân cách.

Tóm lại, cấu trúc của nhân cách khá phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ quả lại chế ước lẫn nhau, tạo nên một bộ mặt tương đối ổn định nhưng cũng rất cơ động. Nhờ có cấu trúc nhân cách như vậy mà cá nhân có thể làm chủ được bản thân, thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt cao với tư cách là chủ thể đầy sáng tạo.

3. Các kiểu nhân cách

Sự hình thành các kiểu nhân cách không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân cá nhân mỗi người mà còn phụ thuộc vào quan hệ xã hội, vào điều kiện lịch sử mà con người đó sống. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại kiểu nhân cách. Tất cả các cách phân loại đều chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế không có người nào chỉ thuộc về một kiểu nhân cách.

Trên thế giới, các nhà bác học đã từng nghiên cứu mẫu người. Theo Drucker, một triết gia nhân cách Anh, có thể có:

– Con người tinh thần, tâm linh;

– Con người trí tuệ;

– Con người tâm lí;

– Con người kinh tế,

– Con người hùng.

3.1. Phân loại nhân cách theo hướng giá trị

Spranger [1882 – 1963], nhà tâm lí học Đức, thuộc trường phái tâm lí học mô tả, căn cứ vào các định hướng giá trị trong hoạt động sống của cá nhân, cho rằng có 5 kiểu nhân cách cơ bản sau:

– Người lí thuyết;

– Người chính trị;

– Người kinh tế;

– Người thẩm mĩ;

– Người vị tha.

Spranger mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các biểu hiện đặc trưng của các loại nhân cách mà chưa lí giải được sự hòa nhập của các loại nhân cách vào xã hội cũng như vị trí, vai trò của từng loại nhân cách.

Karen Horney [1885 – 1952], nhà tâm lí học Mỹ, đại diện của phái phân tâm học, dựa vào định hướng giá trị trong quan hệ người – người, chia ra 3 kiểu nhân cách:

– Kiểu người nhường nhịn [bị áp đảo];

– Kiểu người công kích [mạnh mẽ];

– Kiểu người hờ hững [lạnh lùng].

3.2. Phân loại nhân cách qua giao tiếp

Thông qua giao tiếp có thể có các kiểu nhân cách sau:

– Người thích sống bằng nội tâm;

– Người thích giao tiếp hình thức;

– Người nhạy cảm:

– Người ba hoa.

3.3. Phân loại nhân cách qua sự bộc lộ bản thân trong hoạt động và giao lưu

Người ta thường nói tới 2 kiểu nhân cách:

– Nhân cách hướng ngoại;

– Nhân cách hướng nội.

Trên đây là một số cách phân loại nhân cách thường gặp trong các tài liệu tâm lí học nước ngoài.

3.4. Về kiểu nhân cách sinh viên

Căn cứ vào thái độ học tập của sinh viên; một số tác giả [C, Davit Gôttơlit và Khôtkinơ] đã nêu lên 4 kiểu nhân cách sinh viên như sau:

– Kiểu W: Đó là những sinh viên học tập nhằm mục đích chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai, học để có thể hành nghề khi ra trường; họ ít quan tâm tới các lĩnh vực tri thức và hoạt động chung.

– Kiểu X: Gồm những sinh viên chỉ lao vào học những môn học mà họ cho là sẽ cung cấp những tri thức và kinh nghiệm về cuộc sống nói chung, họ không quan tâm tới việc tham gia các công việc xã hội, ngoài việc họp hành trong các tổ chức sinh viên.

– Kiểu Y: Gồm những sinh viên cố gắng đạt kết quả cao trong học tập, nhưng cũng tích cực tham gia các hoạt động chung, coi tập thể sinh viên có ý nghĩa nhất định đối với sự phát triển của bản thân.

– Kiểu F: Những sinh viên thuộc kiểu này thường quan tâm tới các hoạt động xã hội ở trường đại học hơn là bản thân các môn khoa học và nghề nghiệp.

Tóm lại, vấn đề kiểu nhân cách xã hội nói chung của con người và kiểu nhân cách sinh viên là vấn đề phức tạp và đang có nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi cách phân loại kiểu nhân cách dựa trên một tiêu chí cụ thể, song trên thực tế không có cá nhân nào chỉ thuộc về một kiểu nhân cách ổn định.

4. Các phẩm chất tâm lí của nhân cách

Nhân cách bao gồm nhiều phẩm chất tâm lí và thuộc tính tâm lí đặc trưng của con người, ở đây chúng tôi chỉ tập trung phân tích một số phẩm chất tâm lí cơ bản của nhân cách: đặt tình cảm – ý chí của nhân cách.

4.1. Tình cảm

4.1.1. Khái niệm tình cảm

4.1.1.1. Tình cảm là gì?

Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự vật hiện tượng có liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ.

Cũng như nhận thức, tình cảm phản ánh hiện thực khách quan cơ bản nhất của con người và mang tính chất chủ thể sâu sắc.

Tuy nhiên, so với nhận thức thì Unh cảm có những đặc điểm riêng, khác với đặc điểm của hoạt động nhận thức. Những đặc điểm đó là:

– Về nội dung phản ánh:

Trong khi nhận thức chủ yếu phản ánh những thuộc tính và các mối quan hệ của bản thân thế giới thì tình cảm phản ánh mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, với nhu cầu, động cơ của con người.

– Về phạm vi phản ánh:

Phạm vi phản ánh của tình cảm mang tính lựa chọn, đủ những sự vật có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu hoặc động cơ của con người mới gây nên tình cảm. Vì thế, phạm vi phản ánh của tình cảm có tính lựa chọn hơn so với nhận thức.

– Về phương thức phản ánh:

Nhận thức phản ánh thế giới bằng hình ảnh, biểu tượng, khái niệm, còn tình cảm thể hiện thái độ của con người bằng cách rung.

– Ngoài ra với tư cách là một thuộc tính tâm lí ổn định tiềm tàng của nhân cách, tình cảm mang đậm mầu sắc chủ thể, tình cảm được hình thành và thể hiện qua các xúc cảm theo những quy luật đặc trưng của nó. Tuy nhiên xúc cảm và tình cảm có những điểm khác nhau:

Xúc cảm

Tình cảm

– Có ở người và ở động vật

– Chỉ có ở con người

– Có trước

– Có sau

– Là quá trình tâm lí

– Là thuộc tính tâm lí

– Có tính nhất thời biến đổi phụ thuộc vào tình huống…

– Có tính ổn định lâu dài

4.1.1.2. Những đặc điểm đặc trưng của tình cảm

– Tính nhận thức: Khi có tình cảm nào đó, con người phải nhận thức được đối tượng và nguyên nhân gây nên tâm lí, những biểu hiện tình cảm của mình. Ba yếu tố nhận thức, rung động và thể hiện cảm xúc tạo nên tình cảm.

– Tính xã hội: Tình cảm thực hiện chức năng tỏ thái độ của con người, tình cảm mang tính xã hội, chứ không phải là những phản ứng sinh lí đơn thuần.

– Tính khái quát: Tình cảm có được là do tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hóa những xúc cảm đồng loại.

– Tính ổn định: Tình cảm là thuộc tính tâm lí, là những kết cấu tâm lí ổn định, tiềm tàng của nhân cách, khó hình thành, khó mất đi.

– Tính chân thực: Tình cảm phản ánh chân thực nội tâm và thái độ, ngay cả khi con người cố che giấu nó bằng những “động tác giả” ngụy trang.

– Tính hai mặt [đối cực]: Gắn liền với sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu, tình cảm mang tính đối cực: dương tính – âm tính [yêu – ghét, vui – buồn…].

4.1.2. Các mức độ của đời sống tình cảm

Tình cảm của con người đa dạng cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Xét từ thấp tới cao, đời sống tình cảm của nhân cách có những mức độ sau:

* Màu sắc xúc cảm của cảm giác là các sắc thái cảm xúc đi kèm theo quá trình cảm giác nào đó. Ví dụ cảm giác về màu xanh da trời gây cho ta một xúc cảm nhè nhẹ lâng lâng dễ chịu, cảm giác màu đỏ gây cho tà cảm xúc rạo rực…

* Xúc cảm là những rung cảm xảy ra nhanh, mạnh, rõ rệt hơn so với màu sắc xúc cảm của cảm giác. Theo E. Izard, con người có 10 xúc cảm nền tảng: hứng thú, hồi hộp, vui sướng, ngạc nhiên, đau khổ, căm giận, ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ, tội lỗi.

* Xúc động là một dạng xúc cảm có cường độ rất mạnh, xảy ra trong thời gian ngắn, có khi chủ thể không làm chủ được bản thân. Say mê là một trạng thái tình cảm mạnh, sâu sắc và bền vững. Tâm trạng là một dạng xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc yếu, tồn tại trong thời gian tương đối lâu dài. Stress là một trạng thái căng thẳng về cảm xúc và trí tuệ.

* Tình cảm là thuộc tính tâm lí ổn định bền vững của nhân cách, nói lên thái độ của cá nhân.

Người ta thường hay nói 2 nhóm tình cảm:

– Tình cảm cấp thấp có liên quan tới sự thỏa mãn hay không thoả mãn những nhu cầu của cơ thể.

– Tình cảm cấp cao bao gồm:

+ Tình cảm đạo đức: biểu thị thái độ của con người đối với các yêu cầu đạo đức trong xã hội, trong quan hệ con người với con người, với cộng đồng, với xã hội [như tình mẹ con, bầu bạn, anh em, tình yêu nam nữ, tình cảm nhóm xã hội].

+ Tình cảm trí tuệ: tính ham hiểu biết, óc hoài nghi khoa học, nhạy cảm với cái mới.

+ Tình cảm thẩm mĩ: thể hiện thái độ rung cảm với cái đẹp.

+ Tình cảm mang tính chất thế giới quan: tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế…

4.1.3. Vai trò của tình cảm

Trong tâm lí học, người ta xem tình cảm là mặt tập trung nhất, đậm nét nhất của nhân cách con người.

Với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi chân lí, ngược lại, nhận thức là cơ sở, là cái “lí” của tình cảm, lí chỉ đạo tình, lí và tình là hai mặt của một vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con người.

Với hành động, linh cảm nảy sinh và biểu hiện trong hoạt động, đồng thời tình cảm là một trong những động lực thúc đẩy con người hoạt động.

Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tầm lí của nhân cách: trước hết, tình cảm chi phối tất cả các biểu hiện của xu hướng nhân cách [nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, niềm tin], tình cảm là mặt nhân lõi của tính cách, là điều kiện và động lực để hình thành năng lực, là yếu tố có quan hệ qua lại với khí chất của con người.

4.1.4. Các quy luật của tình cảm

4.1.4.1. Quy luật “thích ứng”

Trong lĩnh vực tình cảm, nếu một tình cảm nào đó cứ lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn điệu thì đến một lúc nào đó có hiện tượng thích ứng, mang tính chất “chai dạn” của tình cảm. Dân gian vận thường nói “gần thường xa thương” là vì vậy.

4.1.4.2. Quy luật “cảm ứng” [hay “tương phản”]

Trong quá trình hình thành và biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện hoặc sự suy yếu đi của một tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc rối tiếp nó. Hiện tượng đó là biểu hiện của quy luật “cảm ứng” [hoặc “tương phản”].

4.1.4.3. Quy luật “pha trộn”

Trong đời sống tình cảm của một con người cụ thể, nhiều khi hai tình cảm đối cực nhau có thể cùng xảy ra một lúc, nhưng không loại trừ nhau, chúng “pha trộn” vào nhau. Ví dụ “giận mà thương”, “thương thà giận”, hoặc hiện tượng “ghen tuông” trong tình cảm vợ chồng hay trong tình yêu nam nữ là biểu hiện của sự pha trộn giữa yêu và ghét.

4.1.4.4. Quy luật “di chuyển”

Trong cuộc sống hàng ngày có lúc tình cảm thể hiện quá “linh động”; có khi ta không kịp làm chủ tình cảm của mình như hiện tượng “giận cá chém thớt”, “ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”... Đó là biểu hiện của quy luật “di chuyển” tình cảm từ đối tượng này sang đối tượng khác có liên quan với đối tượng gây nên tình cảm trước đó.

4.1.4.5. Quy luật “lây lan”

Trong mối quan hệ tình cảm giữa con người với nhau có hiện tượng vui “lây”, buồn “lây” hoặc “đồng cảm”, “cảm thông” giữa người này với người khác. Những hiện tượng này là biểu hiện của quy luật “lây lan”.

Tuy nhiên việc lây lan tình cảm từ chủ thể này sang chủ thể khác không phải là con đường chủ yếu để hình thành tình cảm.

4.1.4.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm

Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được hình thành do quá trình tổng hợp hóa, động hình hóa và khái quát hoá những xúc cảm cùng loại.

Tình cảm được xây dựng từ những xúc cảm, nhưng khi đã được hình thành thì tình cảm lại thể hiện qua các xúc cảm đa dạng và chi phối các xúc cảm.

Các quy luật nói trên thể hiện phong phú và đa dạng trong cuộc sống của con người.

4.2. Mặt ý chí của nhân cách

4.2.1. Ý chí là gì?

Là một phẩm chất nhân cách, ý chí thể hiện năng lực thực hiện những hành động có mục đích đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.

– Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiến, ở đó con người tự giác được mục đích của hành động, đấu tranh động cơ, lựa chọn được các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thực hiện đến cùng mục đích đề ra. Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, mặt năng động của tình cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người. Giá trị chân chính của ý chí không phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu, mà điều chủ yếu là ở nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ lực vươn tới.

– Ý chí được thể hiện qua các phẩm chất sau:

+ Tính mục đích: Là phẩm chất đặc biệt quan trọng của ý chí, tính mục đích của ý chí cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự giác. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới quan, vào nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.

+ Tính độc lập: Là phẩm chất ý chí cho phép con người quyết định và thực hiện hành động theo những quan điểm và niềm tin của mình.

+ Tính quyết đoán: Đó là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát trên cơ sở tính toán cân nhắc kĩ càng, chắc chắn.

+ Tính kiên cường: Tính kiên cường của ý chí nói lên cường độ của ý chí, cho phép con người có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện đến cùng mục đích đã xác định.

+ Tính dũng cảm: Khả năng sẵn sàng và nhanh chóng vươn tới mục đích bất chấp khó khăn nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích của bản thân.

+ Tính tự kiềm chế: tự chủ là khả năng và thói quen kiểm tra hành vi làm chủ của bản thân mình, kìm hãm những hành động được cho là không cần thiết hoặc có hại trong trường hợp cụ thể.

Các phẩm chất ý chí của nhân cách nói trên luôn gắn bó hữu cơ với nhau, hỗ trợ cho nhau, tạo nên ý chí cao của con người. Các phẩm chất ý chí được thể hiện trong hành động ý chí.

4.2.2. Hành động ý chí

4.2.2.1. Hành động ý chí là gì?

Hành động ý chí là hành động có ý thức, có chủ tâm, đòi hỏi nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.

Hành động ý chí có đặc điểm sau:

– Nguồn gốc kích thích hành động ý chí không trực tiếp quyết định hành động bằng cường độ vật lí mà thông qua cơ chế động cơ hoá hành động, trong đó chủ thể nhận thức ý nghĩa của kích thích để từ đó quyết định có hành động hay không.

– Hành động ý chí có tính mục đích rõ ràng và chứa đựng nội dung đạo đức.

– Hành động ý chí bao giờ cũng có sự lựa chọn phương tiện và biện pháp tiến hành.

– Hành động ý chí luôn có sự điều khiển, điều chỉnh, kiểm tra của ý thức, luôn có sự nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.

4.2.2.2. Cấu trúc của hành động ý chí

Trong một hành động ý chí điển hình có 3 thành phần [hay 3 giai đoạn] cơ bản sau: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn thực hiện, giai đoạn đánh giá kết quả hành động.

– Giai đoạn chuẩn bị: “Giai đoạn này gồm các khâu:

+ Xác định mục đích, hình thành động cơ: trong giai đoạn này có sự đấu tranh động cơ để chọn lấy một mục đích, một động cơ nổi bật. Việc đấu tranh động cơ còn diễn ra suốt quá trình hoạt động.

+ Lập kế hoạch hành động;

+ Chọn phương tiện và biện pháp hành động;

+ Quyết định hành động.

– Giai đoạn thực hiện: Việc chuyển từ quyết định hành động đến hành động là sự thay đổi về chất, vì đó là sự chuyển biến nguyện vọng thành hiện thực. Sự thực hiện quyết định có thể diễn ra dưới hai hình thức.

+ Thực hiện hành động bên ngoài;

+ Hành động ý trí bên trong [hay kìm hãm các hành động bên ngoài]. Trong quá trình thực hiện hành động có thể gặp những khó khăn trở ngại, đòi hỏi. phải nỗ lực ý chí vượt qua nhằm thực hiện đến cùng mục đích đã định. Có hai loại trở ngại, khó khăn: khó khăn bên trong [chủ quan] và các khó khăn bên ngoài [khách quan]. Ý chí thể hiện tập trung và rõ ràng khi nó khắc phục các khó khăn, đạt mục đích đã đề ra bằng sự nỗ lực của bản thân.

– Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động: Khi hành động đạt đến một mức độ nào đó, con người đánh giá, đối chiếu các kết quả đạt được với mục đích đã định. Khi kết quả của hành động phù hợp với mục đích thì hành động kết thức. Sự đánh giá thường đem lại sự hài lòng, thỏa mãn hoặc chưa thỏa mãn, chưa hài lòng. Sự đánh giá có thể trở thành sự kích thích và động cơ đối với hoạt động tiếp theo.

Tóm lại, ba giai đoạn trên của hành động ý chí có liên quan hữu cơ, tiếp nối nhau và bổ sung cho nhau.

4.2.3. Hành động tự động hóa: kĩ xảo và thói quen

Ngoài hành động bản năng và hành động ý chí, ở con người, có hành động tự động hóa.

4.2.3.1. Hành động tự động hóa là gì?

Hành động tự động hóa vốn là hành động có ý thức, nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần, hoặc do luyện tập mà nó trở thành tự động hóa, không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức mà vẫn thực hiện có kết quả.

Có hai loại hành động tự động hóa: kĩ xảo và thói quen.

Kĩ xảo là loại hành động tự động hóa nhờ luyện tập, còn thói quen là loại hành động tự động hóa ổn định trở thành nhu cầu của con người.

Kĩ xảo và thói quen có những điểm khác nhau:

Kỹ xảo

Thói quen

– Mang tính chất kỹ thuật

– Mang tính chất nhu cầu, nếp sống

– Được đánh giá về mặt thao tác

– Được đánh giá về mặt đạo đức

– Ít gắn với tình huống

– Luôn gắn với tình huống cụ thể

– Có thể ít bền vững nếu không thường xuyên luyện tập củng cố

– Bền vững, ăn sâu vào nếp sống

– Con đường hình thành chủ yếu của – Hình thành bằng nhiều con đường kĩ xảo là luyện tập có mục đích và có hệ như rèn luyện, bắt chước.

4.2.3.2. Quy luật hình thành kĩ xảo

– Quy luật tiến bộ không đồng đều: trong quá trình luyện tập kĩ xảo có sự tiến bộ không đồng đều:

+ Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ nhanh, sau đó chậm dần.

+ Có những kỹ xảo khi mới bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ chậm, nhưng đến mốt giai đoạn nhất định nó lại tăng nhanh.

+ Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại sau đó tăng dần.

Nắm được quy luật trên, khi hình thành kĩ xảo cần bình tĩnh kiên trì, không nóng vội, không chủ quan để luyện tập có kết quả.

– Quy luật “đỉnh” của phương pháp luyện tập: mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất có thể có đối với nó, gọi là “đỉnh” [trần] của phương pháp đó, muốn đạt được kết quả cao hơn phải thay đổi phương pháp luyện tập để có “đỉnh” cao hơn.

– Quy luật về sự tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kỹ xảo mới: Sự tác động qua lại này diễn ra theo hai chiều hướng sau:

+ Kĩ xảo cũ ảnh hưởng tốt, có lợi cho việc hình thành kĩ xảo mới, đó là sự di chuyển [hay còn gọi là “cộng”] kĩ xảo.

+ Kĩ xảo cũ ảnh hưởng xấu, gây trở ngại, khó khăn cho việc hình thành kĩ xảo mới. Đó là hiện tượng giao thoa kĩ xảo.

– Quy luật dập tắt kĩ xảo: Một kĩ xảo đã được hình thành nếu không luyện tập, củng cố và sử dụng thường xuyên có thể bị suy yếu và cuối cùng bị mất đi [bị đập tắt]. Vì thế trong việc hình thành và giữ gìn kĩ xảo đã có cần chú ý ôn tập và củng cố kĩ xảo thường xuyên, kiên trì và có hệ thống.

Các quy luật nói trên cần được quan tâm trong quá trình luyện tập hình thành kĩ xảo ở mỗi con người.

5. Những thuộc tính tâm lí của nhân cách

Trong nhiều sách giáo khoa tâm lí học người,ta coi nhân cách có 4 nhóm thuộc tính tâm lí điển hình là: xu hướng, năng lực, tính cách, khí chất. Cũng giống như một véc tơ lực có phương, chiều, cường độ và tính chất của nó, xu hướng nói lên phương hướng phát triển của nhân cách; năng lực nói lên cường độ của nhân cách; tính cách, khí chất nói lên tính chất phong cách của nhân cách.

5.1. Xu hướng nhân cách và động cơ của nhân cách

Xu hướng nhân cách là một thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân, bao hàm trong nó một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn các thái độ của nó.

Xu hướng nhân cách thưởng biểu hiện ở một số mặt chủ yếu: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin.

5.1.1. Nhu cầu và sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển

– Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau:

+ Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng;

+ Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định;

+ Nhu cầu có tính chu kì;

+ Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật: nhu cầu của con người mang bản chất xã hội.

– Nhu cầu của con người rất đa dạng: Nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc… Nhu cầu tinh thần bao gồm: nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu hoạt động xã hội.

5.1.2. Hứng thú

Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động

– Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bể rộng và chiều sâu của hứng thú.

– Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu, hứng thú là một trong hệ thống động lực của nhân cách.

5.1.3. Lí tưởng

Lí tưởng là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực: tương đối hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn con người vươn tới nó.

– Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Lí tưởng có tính hiện thực về những hình ảnh. lý tưởng bao giờ cũng được xây dựng từ nhiều “chất liệu” có trong hiện thực, nó có sức mạnh thúc đẩy con người hoạt động để đạt mục đích hiện thực. Đồng thời lí tưởng có tính lãng mạn vì mục tiêu của lí tưởng bao giờ cũng là cái gì đó có thể đạt được trong tương lai, trong một chừng mực nào đó đi trước cuộc sống và phản ánh xu thế phát triển con người, lí tưởng còn mang tính chất xã hội lịch sử.

– Lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển cá nhân.

5.1.4. Thế giới quan

Thế giới quan là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định phương châm hành động của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan duy vật biện chứng mang tính khoa học, tính nhất quán cao.

5.1.5. Niềm tin

Là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lí bền vững trong mỗi cá nhân: Niềm tin tạo cho con người nghị lực ý chí để hành động phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.

5.1.6. Hệ thống động cơ của nhân cách

Vấn đề động cơ là vấn đề trung tâm trong cấu trúc của nhân cách. A.N. Lêônchiev cho rằng: “Sự hình thành nhân cách con người biểu hiện về mặt tâm lí trong sự phát triển về mặt động cơ của nhân cách”.

– Các nhà tâm lí học tư sản giải thích nguồn gốc của động cơ chỉ yếu trên bình diện sinh vật, coi bản năng là nguồn năng lượng, động lực chủ yếu thúc đẩy con người hoạt động.

– Các nhà tâm lí học Xô Viết quan niệm: những đối tượng đáp ứng nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan một khi chúng bộc lộ ra, được chủ thể nhận biết sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Khi ấy nó trở thành động cơ của hoạt động. Chẳng hạn X.L Rubinstein quan niệm: “Động cơ là sự quy định về mặt chủ quan hành vi của con người bởi thế giới. Sự quy định này được thực hiện gián tiếp bằng quá trình phản ánh động cơ đó”.

– Có nhiều cách phân loại động cơ:

+ Động cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ;

+ Động cơ quá trình [ví dụ trẻ chơi nhằm thỏa mãn nhu cầu chơi] và động cơ kết quả [hướng vào việc làm ra sản phẩm];

+ Động cơ gần và động cơ xa;

+ Động cơ cá nhân, động cơ xã hội, động cơ công việc…

– Toàn bộ các thành phần trong xu hướng nhân cách như: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin là các thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách, chúng là động lực của hành vi của hoạt động.

Các thành phần trong hệ thống động cơ nhân cách có quan hệ chi phối lẫn nhau theo những thứ bậc, trong đó có những thành phần giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ yếu quyết định hoạt động của cá nhân, có thành phần giữ vai trò phụ, vai trò thứ yếu tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể của hoạt động.

5.2. Tính cách

5.2.1. Tính cách là gì?

Tính cách là một thuộc tính tâm lí phức tạp của cá nhân bao gồm một hệ thống thái độ của nó đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng.

Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường dùng từ “tính tình”, “tính nết”, “tư cách”… để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường được gọi là “đặc tính”, “lòng”, “tinh thần”… Những nét tính cách xấu thường được gọi là “thói”, “tật”…

Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng thể hiện tính độc đáo, riêng biệt điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thế tính cách của cá nhân là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước của xã hội.

5.2.2. Cấu trúc của tính cách

Tính cách có cấu trúc rất phức tạp bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.

– Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm 4 mặt sau đây:

+ Thái độ đối với tập thể và xã hội thể hiện qua nhiều tính cách như lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; thái độ chính trị; tinh thần đổi mới; tinh thần hợp tác cộng đồng…

+ Thái độ đối với lao động thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như lòng yêu lao động, cần cù, sáng tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm đem lại năng suất cao…

+ Thái độ đối với mọi người thể hiện ở những nét tính cách như lòng yêu thương con người theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết tương trợ, tính cởi mở, tính chân thành, thẳng thắn, công bằng…

+ Thái độ đối với bản thân thể hiện ở những nét tính cách như: tính khiêm tốn, lòng tự trọng, tinh phần tự phê bình…

– Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: Đây là sự thể hiện cụ thể ra bên ngoài của hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ cách nói năng rất đa dạng, chịu sự chi phối của hệ thống thái độ nói trên. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng, trong đó thái độ là mặt nội dung, mặt chủ đạo, còn hành vi cử chỉ cách nói năng là hình thức biểu hiện của tính cách không tách rời nhau, thống nhất hữu cơ với nhau.

Cả hai hệ thống trên đều có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính khác của nhân cách như: xu hướng, tình cảm, ý chí, khí chất, kĩ xảo, thói quen và vốn kinh nghiệm của cá nhân.

5.3. Khí chất

5.3.1. Khí chất là gì?

Khí chất là thuộc tính tâm lí phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ, nhịp độ của các hoạt động tâm lí thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.

5.3.2. Các kiểu khí chất

Ngay từ thời cổ đại, Hypocrat [460 – 356 TCN] – danh y Hy Lạp đã cho rằng trong cơ thể con người có 4 chất nước với những đặc tính khác nhau:

– Máu ở tim có đặc tính nóng;

– “Nước nhờ” ở bộ não có thuộc tính lạnh lẽo;

– “Nước mật vàng!” ở trong gan thì khô ráo;

–“Nước mật đen” trong dạ dày thì ẩm ướt.

Tùy theo chất nước nào chiếm ưu thế mà cá nhân có loại khí chất tương ứng.

Chất nước ưu thế

Loại khí chất tương ứng

– Máu

– “Hăng hái” [sanguin]

– Nước nhờn

– “Bình thản” [flêmatique]

– Mật vàng

– “Nóng nảy” [cholerique]

– Mật đen

“Ưu tư" [mélancolique]

– Mật đen –I P. Pavlov đã khám phá ra 2 quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế có 3 thuộc tính cơ bản: cường độ, tính cân bằng, tính linh hoạt. Sự kết hợp theo các cách khác nhau giữa 3 thuộc tính này tạo ra 4 kiểu thần kinh chung cho người và động vật là cơ sở cho 4 loại khí chất.

– 4 kiểu thần kinh cơ bản – 4 kiểu khí chất tương ứng:

+ Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, linh hoạt à “Hăng hái”.

+ Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, không linh hoạt ->“Bình thản”.

+ Kiểu mạnh mẽ, không cân bằng -> “Nóng nảy”

[hưng phấn mạnh mẽ hơn ức chế]

+ Kiểu yếu à “ưu tư “

Mỗi kiểu khí chất trên có mặt mạnh, mặt yếu. Trên thực tế, ở con người có những loại khí chất trung gian bao gồm nhiều đặc tính của bốn kiểu khí chất trên: khí chất của cá nhân có cơ sở sinh lí thần kinh nhưng khi chất mang bản chất xã hội, chịu sự chi phối của các đặc điểm xã hội, biến đổi do rèn luyện và giáo dục.

5.4. Năng lực

5.4.1. Năng lực là gì?

Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho họat động đó có kết quả.

5.4.2. Các mức độ của năng lực

Người ta thường chia năng lực thành 3 mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài.

– Năng lực là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó.

– Tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó.

– Thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức kiệt xuất hoàn chỉnh nhất của những vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.

5.4.3. Phân loại năng lực

Năng lực có thể chia thành 2 loại: năng lực chung và năng lực riêng biệt.

– Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ [quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ…] là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có kết quả.

– Năng lực riêng biệt [năng lực chuyên biệt, chuyên môn] là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao chẳng hạn: năng lực toán học, năng lực thơ, văn, năng lực hội họa, năng lực âm nhạc, năng lực thể dục, thể thao…

Hai loại năng lực chung và riêng luôn bổ sung, hỗ trợ cho nhau.

5.4.4. Mối quan hệ giữa năng lực và tư chất, năng lực và thiên hướng, năng lực với tri thức, kĩ năng và kĩ xảo

– Năng lực và tư chất: Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lí bẩm sinh của bộ não, của hệ thần kinh, của cơ quan phân tích, tạo nên sự khác biệt giữa con người với nhau. Ngoài những yếu tố bẩm sinh, di truyền, trong tư chất còn chứa đựng những yếu tố tự tạo trong cuộc sống cá thể. Đặc điểm di truyền có chức bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay không và thể hiện ở mức độ nào, điều đó hoàn toàn do hoàn cảnh sống quyết định. Như vậy, tư chất là một trong những điều kiện hình thành năng lực, nhưng tư chất không quy định trước sự phát triển của các năng lực. Trên cơ sở của tư chất có thể hình thành những năng lực rất khác nhau. Trong hoạt động, những tiền đề bẩm sinh được phát triển nhanh chóng, những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục hoàn thiện thêm và những cơ chế bù trù được hình thành để bù đắp cho những khuyết nhược của cơ thể.

– Năng lực và thiên hướng:

+ Khuynh hướng của cá nhân đối với một loại hoạt động nào đó được gọi là thiên hướng.

+ Thiên hướng về một loại hoạt động nào đó và năng lực đối với hoạt động ấy thường ăn khớp với nhau và cùng phát triển với nhau. Thiên hướng mãnh liệt của con người đối với một loại hoạt động nào đó có thể coi là dấu hiệu của những năng lực đang hình thành.

– Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo:

Cùng với năng lực thì tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thích hợp cũng rất cần thiết cho việc thực hiện có kết quả một hoạt động. Có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực này. Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo không đồng nhất với năng lực nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Ngược lại, năng lực góp phần làm cho tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng và kĩ xảo tương ứng với lĩnh vực của năng lực đó được nhanh chóng và dễ hơn. Như vậy, giữa năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng nhất. Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đấy có nghĩa là đã có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Ngược lại, khi đã có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thuộc một lĩnh vực nào đó không hẳn sẽ có được năng lực về lĩnh vực đó.

Vấn đề phát hiện và bồi dưỡng năng lực, năng khiếu là một trong những vấn đề cơ bản của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Cần tiếp cận vấn đề phát triển năng lực theo cách tiếp cận nhân cách. Việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển năng lực.

6. Sự hình thành và phát triển nhân cách

6.1. Các yếu tố chi phối sự hình thành nhân cách

Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dẫn các bản năng nguyên thủy mà nhân cách là các cấu tạo tâm lí mới được hình thành và phát triển trong quá trình sống – giao tiếp, vui chơi, học tập lao động… như V.I. Lênin đã khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A.N. Lêônchiev cũng chỉ ra rằng: nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó.

Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao lưu và tập thể có vai trò quyết định.

6.1.1. Giáo dục và nhân cách

Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác chủ động đến con người đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách.

Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường, xã hội bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác đến con người. Theo nghĩa hẹp thì giáo dục có thể xem như là quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi của con người [giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi…].

Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo, điều đó được thể hiện như sau:

– Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách vì giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định hình thành một mẫu người cụ thể cho xã hội – một mô hình nhân cách phát triển, đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống.

– Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau nền văn hóa xã hội – lịch sử để tạo nên nhân cách của mình [qua các mặt nội dung giáo dục].

– Giáo dục đưa con người, đưa thế hệ trẻ vào “vùng phát triển gần”, vươn tới những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo cho thế hệ trẻ một sự phát triển nhanh: mạnh, hướng về tương lai.

– Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân cách như các yếu tố thể chất [bẩm sinh di truyền], yếu tố hoàn cảnh sông, yếu tố xã hội, đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố trên sinh ra [như người bị khuyết tật, bị bệnh hoặc có hoàn cảnh không thuận lợi].

– Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch về một mặt nào đó so với các chuẩn mực do tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã hội [giáo dục lại].

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, giáo dục không phải là vạn năng, cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ nhóm và tập thể. Giáo dục không tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.

6.1.2. Hoạt động và nhân cách

– Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhãn cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.

– Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản chất” [sức mạnh của thần kinh, cơ bắp, trí tuệ, năng lực…] và xã hội, “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác trong xã hội.

– Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân, cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với việc hình thành và phát triển nhân cách. Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá giúp con người thấm nhuần những chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội trở thành lương tâm của con người.

Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách, nên trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm phong phú nội dung, hình thức, cách tổ chức hoạt động sao cho lôi cuốn thực sự cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động đó. Hoạt động của con người luôn mang tính xã hội, tính cộng đồng, nghĩa là hoạt động luôn đi với giao tiếp. Do đó, đương nhiên giao tiếp là một nhân tố cơ bản trong sự hình thành phát triển nhân cách.

6.1.3. Giao tiếp và nhân cách

Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng B.Ph. Lômôv cho rằng: “Khi chúng ta nghiên cứu lối sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”. Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có một vai trò cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách.

– Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. C. Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác và nó giao lưu một cách trực tiếp và gián tiếp với họ”.

Thực tế chứng minh những trường hợp trẻ con do động vật nuôi đã mất bản tính người, mất nhân cách và chỉ còn lại những đặc điểm tâm lí, hành vi của con vật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng sự giao tiếp quá hạn chế, nghèo nàn đã dẫn đến những hiệu quả nặng nề là dễ mắc bệnh “đói giao lưu do nằm viện lâu ngày” [hospitalism].

– Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất con người, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội.

– Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như là một nhân cách để hình thành một thái độ giá trị cảm xúc nhất định đối với bản thân. Hay nói khác đi, qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức.

Tóm lại, giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, là một nhân tố cơ bản của việc hình thành phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách. Song hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.

6.1.4. Tập thể và nhân cách

Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội. Song con người lớn lên và trở thành có nhân cách không phải là trong môi trường xã hội trừu tượng, chung chung, mà trong môi trường xã hội cụ thể: gia đình, làng xóm, quê hương, khu phố, là các nhóm, cộng đồng và tập thể mà nó là thành viên. Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên mà nhân cách con người được hình thành từ ấu thơ, Con người là thành viên của các nhóm nhỏ: nhóm chính thức, nhóm không chính thức, nhóm thực và nhóm quy ước… Các nhóm nhỏ như gia đình, nhóm bạn thân, lớp học, tổ công tác… có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Các nhóm có thể đạt tới trình độ phát triển cao được gọi là tập thể. Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội.

– Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Trong nhóm và tập thể diễn ra các hình thức hoạt động đa dạng, phong phú [vui chơi, học tập, lao động, hoạt động xã hội] và các mối quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân và cá nhân, cá nhân với nhóm, nhóm với nhóm ảnh hưởng của xã hội, các mối quan hệ xã hội thông qua các nhóm tác động đến từng người. Ngược lại, mỗi nhân cách tác động đến cộng đồng, tới xã hội, tới cá nhân khác cũng thông qua các tổ chức nhóm và tập thể mà nó là thành viên. Tác động của tập thể đến nhân cách thông qua hoạt động tập thể, dư luận tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lí tập thể. Vì thế trong giáo dục thường vận dụng nguyên tắc giáo dục bằng tập thể và trong tập thể.

Tóm lại, bốn nhân tố: giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể tác động đan xen vào nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành phát triển nhân cách.

6.2. Sự hoàn thiện nhân cách

Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác động chủ đạo của giáo dục, sẽ dẫn tới việc hình thành một cấu trúc nhân cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống, nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Cá nhân có thể có những chệch hướng trong sự biến đổi những nét nhân cách so với chuẩn mực chung, thang giá trị chung của xã hội, có thể đưa đến sự phân li, suy thoái nhân cách, đòi hỏi cá nhân phải tự điều khiển, tự điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chuẩn mực chân chính, phù hợp với quy luật khách quan của xã hội để tự điều khiển, tự điều chỉnh nhân cách của mình. Vì thế vai trò của tự giáo dục, tự rèn luyện có ý nghĩa đặc biệt trong việc hoàn thiện nhân cách.

Video liên quan

Chủ Đề