Rủi ro thuần túy là gì năm 2024

1. Một số khái niệm về rủi ro Vào ngày thứ sáu, 26 tháng 2, năm 1993, một vụ nổ bom làm rung chuyển khu trung tâm thương mại thế giới ở thành phố New York. Sự kiện đó, rõ ràng là việc làm cho một nhóm người khủng bố chống lại chính sách của Mỹ ở Trung Đông, làm bang hoàng 1 quốc gia đã quen với việc mục kích khủng bố chống từ một khoảng cách an toàn. Vào những ngày sau đó, cách ảnh hưởng vô hình và hữu hình của vụ nổ bắt đầu xuất hiện. Theo ước lượng ban đầu, mức thiệt hại của khu thương mại khoảng 100 đến 200 triệu USD. Trong khi đó, những chi phí gián tiếp mà nhà chức trách cảng New York và New Jersey [ Chủ sở hữu khu thương mại], thành phố New York, và những người thuê trung tâm thương mại thế giới đánh giá lớn hơn 1 tỷ USD. Những chi phí gián tiếp này bao gồm: thời gian làm việc bị mất, sự thiệt hại/chậm trễ hàng tồn kho, sự mất mát hồ sơ, chi phí sắp xếp tạm thời, sự ngưng trệ giao thông và quá cảnh, và những chi phí pháp lý và kế toán. Cuối cùng, chắc chắn là không dưới 6 người bị chết và hơn 1000 người bị thương do hậu quả cảu vụ đánh bom. Gần như trong cùng thời gian New York đang bị choáng váng bởi sự kiện đánh bom , thì tổng thống Nga Borris Yelsin bị bế tắc trong trong cuộc đấu tranh chính trị cực kỳ quan trọng với quốc hội Ngaị trí quyền lực chính trị trong một nước cộng hòa mới, và vì thế, khuynh hướng tương lai của một trong những quốc gia lớn nhất thế giới đang lâm vào tình trạng bấp bênh. Trong khi đó, ở Waco, Texas những viên chức thi hành luật ở địa phương và liên bang đang bị sa lầy trong một cuộc thỏa hiệp với 1 giáo phái đang được trang bị đầy đủ vũ khí.Cuộc chạm trán xảy ra làm thiệt hại đáng kể cho công chúng, ít nhất phần nào là hậu quả của một cuộc tấn công vào cộng đồng tôn giáo đã dẫn đến tổn thất lớn về người và của cho cả 2 bên. Cuối cùng, hai tuần sau vụ đánh bom ở New York, một trong những trận bão mùa đông lớn nhất của nước Mỹ, từ Florida tới Maine, gây nên những tổn thất lớn trên một phạm vi rộng và hơn một trăm người đã bị thiệt hại do trận bão.

Có lẽ, khía cạnh nổi bật nhất của giai đoạn hai tuần lễ này là không thể không quan tâm đến nó. Tại bất kỳ thời điểm nào trên thế giới, cái chết bất ngờ, sự tàn phá, sự đình trệ và sự rối loạn vẫn đang xảy ra trên phạm vi rộng lớn. Thực ra, bốn vấn đề này làm lu mờ nhiều điều quan trọng tương tự đang xảy ra như: Florida đang cố gắng để phục hồi sau trận bão Andrew, sự xung đột trong cộng hòa Nam Tư cũ, hòa bình không dễ dàng ở Somalia; những đàm phán chính trị ở Campuchia; sự suy thoái kinh tế toàn cầu, những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm kiểm soát sự thâm hụt ngân sách liên bang. Rủi ro và sự bất định cũng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống trên phạm vi nhỏ hơn. Một chỗ nương thân cho những người vô gia cư chống lại bất trắc để có thể tiếp tục tồn tại. Cơ quan lập pháp của một bang đang gặp rủi ro và bất định khi xem xét ảnh hưởng kinh tế của những sự thay đổi trong chính sách thuế. Một nhà sản xuất dược phẩm lường trước những rủi ro khi đánh giá hiệu quả phương pháp chữa trị thực nghiệm Parkinson. Một người chủ gia đình bị thất nghiệp đã xem xét lại những rủi ro kinh tế và rủi ro nhân mạng khi quyết định ngừng mua bảo hiểm sức khỏe vì phí càng đắt hơn. Mặc dù có nhiều vấn đề trong cuộc sống vượt quá tầm kiểm soát và hiểu biết của những cá nhân và những tổ chức, nhưng con người có thể làm được nhiều việc để có thể kiểm soát và quản lý tính bất định và rủi ro. Những hoạt động hàng ngày có một vai trò nhất định trong quản trị rủi ro và bất định: đeo dây an toàn; trải muối trên những con đường bộ bị đóng băng; theo dõi và chữa trị huyết áp cao, đều có thể kiểm soát được những rủi ro nhất định. 1 Rủi ro Trường phái truyền thống [tiêu cực].

  • Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến [từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1995]
  • Theo Giáo sư Nguyễn Lân “ rủi ro [đồng nghiã với rủi] là sự không may”.

Ví dụ: người chủ một chiếc xe có rủi ro tổn thất tiềm ẩn liên quan đến một vụ đụng xe. Nếu có đụng xe người đó sẽ bị thiệt hại về tài chính. Nếu không, người đó sẽ không có lợi gì cả, vì thế tình trạng tài chính của người đó vẫn không thay đổi.  Phân loại rủi ro thuần tuý Rủi ro thuần tuý có thể được phân thành 5 nhóm như sau: Rủi ro cá nhân: đó là các tổn thất về thu nhập hay tài sản của một cá nhân. Nhìn chung, rủi ro thu nhập được đánh giá dựa trên 4 mối nguy hiểm sau:  Chết sớm  Tuổi già  Mất sức lao động  Thất nghiệp Rủi ro về tài sản: Bất cứ một cá nhân nào là chủ sở hữu tài sản, đều phải chịu rủi ro về tài sải. Rủi ro về tài sản là những tổn thất về tài sản do bị hư hỏng hay mất mát. Rủi ro về tài sản được chia thành 2 nhóm: tổn thất trực tiếp và tổn thất gián tiếp.  Tổn thất gián tiếp : tổn thất trực tiếp có thể được hiểu một cách đơn giản như sau: nếu một ngôi nhà bị tiêu huỷ do hoả hoạn, tài sản của người sở hữu bị thiệt hại là giá trị tài sản toàn ngôi nhà. Thiệt hại này được gọi là thiệt hại trực tiếp hay tổn thất trực tiếp.  Tổn thất gián tiếp hay tổn thất do hậu quả : khi ngôi nhà bị cháy [tổn thất trực tiếp], hậu quả kéo theo là chủ ngôi nhà phải chi thêm một khoản tiền để có thể sống tạm một thời gian ở đâu đó trong lúc ngôi nhà được xây dựng [hay phụ hồi] lại. Phần tổn thất này được gọi là tổn thất gián tiếp hay tổn thất “hậu quả”. Thí dụ : Một phân xưởng sản xuất bị hoả hoạn. Tổn thất trực tiếp của công ty là toàn bộ giá trị phân xưởng bị thiêu huỷ. Tổn thất gián tiếp của công ty là thiệt hại về thu nhập do phân xưởng đó sản xuất ra nếu còn sử dụng nó.

Rủi ro tổn thất về tài sản có thể là một hỗn hợp giữa 3 loại rủi ro:

  • Rủi ro tổn thất về tài sản
  • Tổn thất về thu nhập khi tài sản không được sử dụng.
  • Chi phí tăng thêm trong trường hợp có thiệt hại về tài sản. Thí dụ: Ngập vì “treo” Hàng ngàn hộ dân sinh sống trong khu vực Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thạnh, TP HCM đang sống chung với nước ngập do triều cường. Nghiêm trọng nhất là tuyến đường xung quanh chợ Thanh Đa, mỗi khi nước triều sông Sài Gòn dâng cao là gây ngập tràn lan, có nơi ngập sâu hơn 0,4 m, người dân phải xắn quần đi chợ. Trong khi đó dự án chống ngập khu vực Thanh Đa đã được thành phố phê duyệt từ nhiều năm nay nhưng vẫn đang bị “treo” Nguồn: Tuổi trẻ online ngày 21/10/ Với một phạm vi rộng lớn, sự phân biệt giữa rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán rất có ý nghĩa. Một cách đặc trưng, bất kỳ rủi ro nào cũng đều có cả hai yếu tố thuần túy và suy đoán. Người chủ một căn nhà gặp phải rủi ro là giá trị căn nhà vào cuối năm có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị hiện tại của nó. Sự biến động tiềm ẩn trong giá trị căn nhà phát sinh từ nhiều nguồn: thiệt hại do hoat hoạn, hay thiệt hại do giá cả bất động sản thay đổi trên thị trường. Theo nguyên tắc, rủi ro hỏa hoạn được xem là rủi ro thuần túy, trong khi đó tổn thất trên thị trường bất động sản thì không phải. Tuy nhiên, cả rủi ro hỏa hoạn và rủi ro biến động giá trên thị trường bất động sản đều là những yếu tố của tổng số rủi ro mà người chủ nhà gặp phải. Mặc dù ranh giới giữa rủi ro thuần túy và rủi ro suy toán còn mơ hồ, trong bài này sẽ tiếp tục phân biệt giữa rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán vì người ta cho rằng có phản ứng khác nhau đối với từng loại rủi ro và có lẽ quan trọng nhất một tổ chức có rất ít chức năng chỉ tập trung vào những rủi ro thuần túy và ảnh hưởng của chúng đối với tổ chức. Những phản ứng khác nhau đối với những rủi ro thuần túy và rủi ro suy toán có thể được minh họa bừng nhiều cách. Ví dụ, có thể những kỹ năng cần có để kìm

ro dưới những điều kiện rủi ro suy đoán, trong khi đó không có cơ hội hưởng lợi có thể làm mất đi động cơ chấp nhận rủi ro. Trong bất kỳ sự kiện nào, hành vi chấp nhận rủi ro có thể được xem xét một cách thích hợp nếu chúng ta nhận ra rằng những rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán về cơ bản là khác nhau. Rủi ro pháp lý: Mối nguy hiểm cơ bản trong rủi ro pháp lý là sự bất cẩn [không cố ý] của người khác, hay sự nguy hiểm đến tài sản của họ do không cẩn thận hay không chủ tâm gây nên. Như vậy, rủi ro pháp lý còn có thể là kết quả từ việc bất cẩn không cố ý gây nên. Dưới hệ thống pháp luật của nước ta, điều luật chỉ ra rằng nếu một người nào đó có hành vi định làm hại người khác, hay định gậy thiệt hại tài sản của người khác vì sự bất cẩn hay vì một lý do nào khác, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý với sự thiệt hại gây ra đó. Rủi ro pháp lý là tổng hợp giữa khả năng thiệt hại về tài sản hiện tại và tổn thất về thu nhập trong tương lai do hậu quả thiệt hại về tài sản gây nên, hay trách nhiệm pháp lý phát sinh trong trường hợp cố ý hay không cố ý gây hại hay xâm phạm quyền lợi của người khác. Thí dụ: Do sự bất cẩn của hai người thợ hàn, hàn cửa sắt ở tầng 2 của toà nhà thương mại ITC [Sài Gòn] đã gây hoả hoạn làm cháy cả toà nhà, gây tổn thất rất lớn về người và tài sản [hàng chục tỷ đồng của các hộ kinh doanh trong toà nhà đó]. Trung tâm mua bán đã phải nhưng hoạt động cả năm trời để sửa chữa. Ông chủ của cơ sở hàn có hai người thợ hàn làm việc bất cẩn, gây hoả hoạn đã bị truy tố trước pháp luật vì sự bất cẩn của 2 nhân viên mình. Rủi ro phát sinh do sự phá sản của người khác: Khi một người nào đó đồng ý làm việc cho một tổ chức, người đó phải có trách nhiệm với bất kỳ tình huống nào mà tổ chức sẽ gặp phải. Khi một cá nhân hay tổ chức bị phá sản đó là hậu quả của tổn thất về tài chính, ta nói rủi ro là hiện hữu. Trong trường hợp này tổ chức có thể đưa vấn đề phá sản vào hợp đồng để xây dựng phương án thanh toán nợ vay khi có sự cố xảy ra.

  1. Rủi ro suy đoán : tồn tại khi có một cơ hội kiếm lời được cũng như một nguy cơ tổn thất. Ví dụ : đầu tư vào 1 dự án vốn có thể có lợi nhuận hay có thể thất bại.  Phân loại rủi ro suy đoán. Rủi ro suy đoán có thêt được phân loại theo nhóm nguyên nhân sau đây:  Rủi ro do thiếu kinh nghiệm và kỹ năng quản lý kinh doanh: rủi ro do thiếu kiến thức về quản lý kinh doanh ở tầm vi mô và vĩ mô của các nhà quản lý dẫn đến những thiệt hại to lớn về mặt kinh tế.  Rủi ro do kém khả năng cạnh tranh: đó là rủi ro của các công ty do không thích nghi được với khả năng cạnh tranh trên thị trường, không chiếm lĩnh được thị trường và không giữ được khách hàng của mình. Hậu quả, mang lại những thiệt hại về tài chính của công ty. Thiệt hại này đôi khi có thể làm công ty phá sản.  Rủi ro do sự thay đổi thị hiếu của khách hàng: do sự hạn chế các kiến thức về marketing, các công ty đã không kịp thời đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu của khách hàng. Hậu quả, hàng sản xuất ra không hợp thị hiếu của khách hàng, không bán được, làm tổn thất tài chính của công ty.  Rủi ro do lạm phát: do lạm phát tăng làm cho giá cả hàng hoá, nguyên vật liệu tăng, đồng tiền mất giá. Kết quả, chi phí đầu vào lớn hơn mức dự kiến, làm cho thu nhập bị giảm [thiệt hại về tài chính]  Rủi ro do điều kiện không ổn định của thuế: thuế là một trong những công cụ để điều hoà thu nhập trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò rất quan trọng trong vấn đề tính toán hiệu quả kinh doanh của một công ty. Kinh doanh trong một môi trường bất ổn của thuế là một rủi ro rất lớn. Nếu không được tính toán kỹ, công ty sẽ dễ bị thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản.
  1. Rủi ro không thể đa dạng hóa : nếu những thỏa hiệp đóng góp tiền bạc không có tác dụng gì đến việc giảm bớt rủi roc ho những người tham gia vào quỹ góp chung này. **1. Bất định
  1. Khái niệm**  Sự chắc chắn là một trạng thái không có nghi ngờ.  Phản nghĩa của từ chắc chắn là sự bất định, có nghĩa là “nghi ngờ khả năng của chúng ta trong việc tiên đoán kết quả tương lai của một loạt những hoạt động hiện tại”.  Rõ ràng, thuật ngữ “sự bất định” mô tả một trạng thái tư tưởng. Sự bất định xuất hiện khi một cá nhân bắt đầu ý thức rằng không thể biết chắc chắn kết quả là gì. Bất định là một khái niệm chủ quan.

1. Các mức độ bất định Sự bất định là sự nghi ngờ về khả năng của chúng ta trong tiên đoán kết quả. Sự bất định xuất hiện khi một cá nhân nhận thức được rủi ro. Đó là một khái niệm chủ quan, vì vậy nó không thể đo lường trực tiếp. Do bất định là một trạng thái tư tưởng, nó khác biệt giữa từng cá nhân. Đối với những hoạt động phức tạp, chẳng hạn như tham gia vào các hoạt động kinh doanh, một số người rất thận trọng, trong khi đó những người khác lại mạnh dạn hơn. Mặc dù tính sợ rủi ro giải thích phần nào sự lưỡng lự khi tham gia các hoạt động kinh doanh, mức độ nhận thức rủi ro của từng cá nhân cũng đóng một vai trò quan trọng. Nó tùy thuộc vào thông tin được sử dụng để đánh giá kết quả và khả năng đánh giá của từng cá nhân đối với thông tin đó. Mức độ và loại thông tin về bản chất của hoạt động mang tính rủi ro có một ảnh hưởng quan trọng đối với sự bất định. Với mục đích nghiên cứu và quản trị rủi ro, trong từ điển có trình bay một định nghĩa về thuật ngữ "sự bất đinh". Khả năng của con người trong tiên đoán kết quả

tương lai của một hành động chịu tác động mạnh mẽ bởi khối lượng và loại thông tin có thể có để dự báo những kết quả những hoạt động của chúng ta. Nói một cách khác, sự bất định hiện diện trong những mức độ và cấp độ như được minh họa trong bảng 1.

Ở mức hai, chúng ta không chắc chắn về những xác suất, mặc dù chúng ta phân biệt được những kết quả có thể xảy ra. Sự bất định ở mức hai có thể nằm ngay trong trò chơi may rủi nếu nhưng chúng ta không biết được khả năng liên quan đến nhau của những kết quả [ví dụ, tiên đoán màu của một quả bóng được rút ra ngẫu nhiêu từ một cái bình đựng 100 quả bóng màu trắng và đỏ, với một tỷ lệ màu đỏ không được biết trước].

Mức hai, có thể được mô tả sự bất định chủ quan, bộc lộ rõ bản chất nhiều cuộc đầu cơ kinh doanh, những dự án đầu tư và những rủi ro được bảo hiểm. Lấy ví dụ, người chủ của một chiếc xe, có thể bị hư hại trong một tai nạn, có thể nhận biết những hậu quả như sau: chiếc xe đó có thẻ gặp hoặc không một tai. Nếu tai nạn xảy ra, mức thiệt hại có thẻ dao động trong khoảng từ mức thiệt hại thấp nhất đến mức cao nhất [chiếc xe bị hư hỏng hoàn tòa ]. Tuy nhiên hầu hết những người chủ các phương tiện này không có được những đánh giá chính xác về khả năng chiếc xe có bị tai nạn hay không, chứ chưa nói đến chuyện có thể có những mức thiệt hại khác nhau nào không. Những đánh giá này, nếu như có được, phụ thuộc vào những vấn đề chẳng hạn như vùng chiếc xe đang hoạt động, thời gian lái, những thói quen lái xe của người chủ cũng như những người lái xe khác, mức độ bảo quả và những chi phí sửa chữa.

Mức độ ba, chúng ta không biết chắc chắn về bản chất của những kết quả mà chúng ta đã không nhận biết đầy đủ. Những ví dụ về sự bất định rơi vào mức độ này là những nỗ lực ban đầu trong việc thám hiểm không gian và sự phát triển sử dụng năng lượng nguyên tử trong thời bình. Trong những đề án này, cũng như trong nhiều loại nghiên cứu khoa học khác, chúng ta có thể không nhận biết được hoàn toàn bản chất của tất cả những hậu quả trước khi chúng ta đảm nhận đề án. Dù thế lòng khao khát mở rộng những giới hạn hiểu biết và tìm kiếm những lợi ích kinh tế từ khai thác các kỹ thuật mới là những điều thúc đẩu loài người chất nhận những hoạt động với mức độ dao động cao nhất này.

1. Phản ứng đối với sự bất định Người ta thường mong chờ các cá nhân sợ rủi ro chuộng mức độ bất định thấp hơn theo nghĩa là họ sẵn sang trả tiền để có được thông tin hay những hoạt động khác làm cho sự bất định giảm xuống một mức thấp hơn. Ví dụ: Bảo hiểm đưa ra một ví dụ rõ ràng: người lái xe ý thức một tai nạn xe cộ ở mức 2 sẽ sẵn sàng trả tiền bảo hiểm lớn hơn tổn thất trung bình trong một tai nạn cho một hợp đồng bồi thường tổn thất. Nhà bảo hiểm là người có chuyên môn đánh giá các rủi ro, do vậy, sự bất định của nó chỉ ở mức 1, trong khi sự bất định đối với cá nhân người lái xe thì ở mức 2 hay 3. 1. Sự bất định, thông tin và truyền thông. Việc giảm bớt sự bất định có giá trị kinh tế, và thông tin có thể làm giảm sự bất định – như đã lưu ý trong phần đầu của chương này. Mức độ bất định phụ thuộc vào khối lượng, loại thông tin có được để nhận ra những kết quả có thể có và đánh giá khả năng xảy ra của chúng. Truyền thông có thể làm giảm mức độ bất định của các nhà đầu tư, của một tổ chức, của những người có cuộc sống bị ảnh hưởng bởi những hoạt động của tổ chức đó. Đối với một tập đoàn kinh doanh hiện đại, ví dụ về các nhà đầu tư bao gồm: nhà đầu tư về vốn, các nhân viên của tập đoàn đó, các nhà bảo hiểm ký kết các hợp đồng để đối phó với những tổn thất của tập đoàn, các nhà cung cấp, các khách hàng, và các chủ nợ. Đối với các chính phủ và tổ chức phi lợi nhuận, nhiều trong số các nhà đầu tư này cũng có mặt. Những người có quyền lợi liên quan còn bao gồm: các nhà tình nguyện, nhà hảo tâm, họ cũng được đưa vào danh sách các nhà đầu tư. Sự truyền thông giữa các tổ chức và những người có quyền lợi liên quan là một phần quan trọng thuộc về trách nhiệm của người quản lý. Bằng cách thông tin các chính sách của tổ chức để quản trị rủi ro, tổ chức có thể làm giảm đi mức độ bất định của những người có quyền lợi liên quan này, từ đó làm cho họ sẵn lòng gia tăng quan hệ với tổ chức trên những điều kiện thuận lợi. Nếu không có thông tin này, những người có quyền lợi liên quan có thể không an

sản phẩm]. Tổ chức phải có trách nhiệm đạo đức trong việc bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Về nhiều mặt, trách nhiệm đạo đức đòi hỏi nhiều hơn là nghĩa vụ pháp lý cho dù việc định nghĩa trách nhiệm đạo đức có thể rất khó. Câu hỏi ôn tập:

  1. Sự bất định mang một ý nói chung là tiêu cực. Sự bất định có mặt tích cực không? Chúng có thể là gì?
  2. Hai sinh viên cân nhắc một chuyến du lịch nghỉ hè. Khi được biết rằng phần lớn thời gian của chuyến đi họ phải ở trên một chiếc máy bay 18 chỗ ngồi. Dựa vào sự kiện đó, một sinh viên quyết định ở nhà trong khi người kia vẫn đi. Điều gì có thể giải thích những quyết định khác nhau của họ? Những nhân tố nào có thể giải thích được tại sao quyết định của họ lại khác nhau?
  3. Học cao đẳng tạo nên những rủi ro có cả 2 đặc tính: rủi ro thuần túy và rủi ro suy đoán. Hãy nhận dạng ba rủi ro thuần túy và 3 rủi ro suy đoán mà bạn phải đương đầu khi theo học.
  4. Bạn sẽ mô tả chính bạn là một người chấp nhận rủi ro, một người sợ rủi ro, hay một người trung lập với rủi ro? Bạn hãy giải thích tại sao bạn lại chấp nhận rủi ro, sợ rủi ro hay trung lập với rủi ro? Thái độ của bạn đối với rủi ro có khác không khi đương đầu với những rủi ro thuần túy so với những rủi ro suy đoán như thế nào? Tại sao có/tại sao không?
  5. Xem xét những tình huống sau: nhận dạng [1] những rủi ro thuần túy và suy đoán có thể có [2] loại thông tin nào có thể hữu ích trong việc làm giảm đi sự bất định của bạn và [3] bất kỳ một vấn đề đạo đức hay luân lý có thể nảy sinh từ rủi ro bất định trong mỗi tình huống sau: Tình huống A: Bạn thuộc một ủy ban tư vấn thành phố có trách nhiệm giới thiệu một vị trí để đặt những thiết bị năng lượng hạt nhân lớn. Tình huống B:

Bạn là giám đốc tiếp thị của một nhà sản xuất trang thiết bị công nghiệp, và công ty bạn đang xem xét việc tiếp thị máy khoan tiêu chuẩn thương mại ở Mỹ La Tinh. Tình huống C: Bạn là tổng thống Mỹ, bạn phải quyết định có nên gửi quân đội hay không can thiệp vào một nước đang có nội chiến có thể lan sang những nước láng giềng khác? Tình huống D: Bạn là giám thị trường học công của một thành phố lớn, bạn hãy suy nghĩ có nên quyết định hủy bỏ chương trình đưa rước học sinh của trường và thay thế bằng những trường học trong từng quận của thành phố.

một cách đặc trưng trong lĩnh vực bảo hiểm, cuốn tạp chí lý thuyết chuyên ngành hàng đầu trong lĩnh vực này, tạp chí rủi ro và bảo hiểm [The journal of risk & insurance], được biết đến dưới cái tên Tạp chi về bảo hiểm [The journal of insurance] cho mãi đến năm 1964. Không dễ dàng tóm tắt tiến trình phát triển từ việc mua bảo hiểm đến việc quản trị rủi ro vì trong tất cả các trường hợp nó không xảy ra một các đồng bộ cũng như không theo một thứ tự nào cả. Thực vậy, một nghiên cứu tổng quan ngày nay sẽ cho thấy những mức độ khác nhau rất lớn trong các hoạt động; nhiều tổ chức không có người chịu trách nhiệm về quản trị rủi ro hay việc mua bảo hiểm, một vài tổ chức chỉ mua bảo hiểm bán thời gian, trong khi đó những tổ chức khác có những chương trình quản trị rủi ro đầy tinh vi. Tuy nhiên, chúng ta có thể mô tả hướng đi của quá trình phát triển này Vào thời kỳ ngay sau chiến tranh thế giới lần hai, hầu hết các tổ chức thực hành bất kỳ quản trị rủi ro và bảo hiểm chính thức của người đó chủ yếu là quản lý danh mục bảo hiểm và một vài nhiệm vụ có liên quan. Trong một số tổ chức, trách nhiệm bắt đầu lớn dần khi lượng bảo hiểm tăng lên nhanh chóng và những vấn đề liên quan của thị trường bảo hiểm trở nên phức tạp hơn. Đôi khi hoạt động của thị trường bảo hiểm trở nên phức tạp hơn. Đôi khi hoạt động của thị trường bảo hiểm có ảnh hưởng đến sự mở rộng này, nhưng thỉnh thoảng nó lại là sáng kiến hay khả năng của nhà quản trị, và đôi lúc sự phát triển này là do những tính chất rủi ro của tổ chức. Tuy nhiên, sự mở rộng của chức năng quản trị rủi ro này khá gây chú ý vào khoảng giữa thập niên 1950 cho cả các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn bắt đầu quá trình định nghĩa chức năng này [thường là giai đoạn đầu tiên trong sự phát triển của bất kỳ định luật nào]. Cho đến ngày nay, giai đoạn này vẫn còn là giai đoạn thành công nhất của việc nghiên cứu chính thức về đề tài quản trị rủi ro. Những nghiên cứu ban đầu phản ánh một số những trạng thái căng thẳng, dứt khoát là có ảnh hưởng đến lĩnh vực này. Trong khi quản trị rủi ro có vẻ đang phát triển dần tới một chức năng quản trị rộng hơn, thì những tổ chức lại có khuynh

hướng bảo thủ trong việc coi quản trị rủi ro là một chức năng phụ của tài chính - bởi vì đặc tính của tài chính là quá trình mua bảo hiểm. Trên góc độ nhà họat động thực tiễn, sự căng thẳng này được biểu lộ rõ nhất trong sự thay đổi vị trí của nhà quản trị rủi ro trong tổ chức. Những người mua bảo hiểm chủ yếu được đặt vào phòng tài chính, hay phòng kinh doanh, hoặc sau này [khi những mối quan tâm đến lợi ích người lao động trở nên quan trọng] là phòng quản trị nhân sự. Tuy nhiên khoảng cuối thập niên 1950, một số nhà quản trị rủi ro [thuật ngữ [nhà "quản trị rủi ro" cũng bắt đầu được sử dụng rộng rãi hơn trong suốt giai đoạn này] bắt đầu diễn đạt quan điểm rằng nhiệm vụ của họ đã đi quá những mối quan tâm chỉ thuộc về tài chính hay kinh doanh. Rất thú vị là hầu hết các nhà quản trị rủi ro ngày nay vẫn được đặt trong phòng tài chính hay phòng kinh doanh, vì thế vấn đề này đã không được giải quyết. 2.1 đoạn sau 1960 Một trong những câu chuyện tiến hóa quan trọng trong quản trị rủi ro là việc loại bỏ sử dụng những sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Mặc dù bảo hiểm vẫn được sử dụng rộng rãi, nhưng các tổ chức lớn hơn đã giảm sự lệ thuộc của nó vào những thỏa hiệp có tính qui ước khi các nhà quản trị rủi ro phát hiện ra rằng có một vài rủi ro không thể bảo hiểm được, hay bảo hiểm không đáp ứng được nhu cầu của tổ chức đặc biệt, hay các hoạt động nội bộ nào đó có thể kiểm soát được tác động của rủi ro và bất định đối với tổ chức. Ví dụ, một vài tổ chức rất lớn thấy rằng họ có thể dự báo những loại thiệt hại nào đó cũng như nhà bảo hiểm. Điều này dẫn đến quyết định tự bảo hiểm rủi ro. Trong những tổ chức khác, người ta thấy rằng những hoạt động ngăn ngừa tổn thất là một phản ứng rất có hiệu quả đối với vấn đề mang tính thách thức cụ thể. Bất kể quá trình phát hiện xảy ra như thế nào trong những tổ chức riêng lẻ, ảnh hưởng đang tăng dần chính là sự mở rộng chức năng người mua bảo hiểm [nhà quản trị rủi ro] và sự thay đổi quan trọng nhằm tránh mua bảo hiểm.

Rủi ro được coi là rủi ro có thể được bảo hiểm khi đáp ứng các điều kiện gì?

Rủi ro có thể được bảo hiểm phải hội tụ những điều kiện sau đây: Tổn thất phải mang tính ngẫu nhiên, khách quan và không do chủ ý của người được bảo hiểm. Bởi nếu ngược lại, chắc chắn có nhiều người sẽ cố tình làm hại đến bản thân hay người khác để hưởng lợi từ bảo hiểm. Từ đó gây vi phạm đến chuẩn mực đạo đức.

Khác nhau giữa rủi ro đồng số với rủi ro tình là gì?

 Rủi ro động và rủi ro tĩnh Rủi ro động: là những rủi ro vừa có thể dẫn đến khả năng tổn thất vừa có thể dẫn đến một khả năng kiếm lời. Rủi ro tĩnh: là những rủi ro chỉ có khả năng dẫn đến tổn thất hoặc không tổn thất chứ không có khả năng kiếm lời.

Rủi ro suy đoán là rủi ro như thế nào?

Rủi ro suy đoán: là những rủi ro dẫn đến tình huống tổn thất hoặc sinh lợi. Đây là loại rủi ro thường gắn liền với hoạt động đầu tư, kinh doanh hay đầu vốn có thể thành công hay thất bại. Phần sinh lợi còn gọi là phần thưởng cho rủi ro.

Rủi ro cơ bản là gì cho ví dụ?

4.2 Rủi ro thuần tuý và rủi ro đầu cơ: Loại rủi ro này bao gồm rủi ro tai nạn giao thông, cháy nhà, mất trộm tài sản, bị tai nạn lao động v.v.. - Rủi ro đầu cơ là những rủi ro có nhân tố kiếm lời ở bên trong. Đầu tư vào cổ phiếu là một ví dụ. Việc đầu tư này có thể bị lỗ hoặc hoà vốn, nhưng mục đích của nó là kiếm lời.

Chủ Đề