Sinh lí học học sinh tiểu học nguyên Minh Giang

Hội Xuất bản Việt Nam, Công ty Đường sách TP.HCM cùng các nhà xuất bản, công ty sách đã cùng thực hiện "Danh mục sách hỗ trợ dạy và học cấp tiểu học" với hơn 600 cuốn sách theo từng chủ đề, phân môn của chương trình giáo dục hiện hành, hỗ trợ cho quá trình dạy và học của giáo viên, học sinh.

Kết quả 1-10 trong khoảng 10

  • Ebook Tâm lý giáo dục: Phần 1

    Ebook Tâm lý giáo dục: Phần 1 trình bày các nội dung tổng quát về tâm lý giáo dục, sự phát triển của trẻ em về phương diện cơ thể, sự phát triển của trẻ em về phương diện xúc cảm, phát triển của trẻ em về phương diện trí tuệ, phát triển xã hội, những phương pháp tìm hiểu học sinh,... Để nắm nội dung mời các bạn cùng tham khảo.

     93 p tdmu 26/03/2019 566 3

    Từ khóa: Ebook Tâm lý giáo dục, Tổng quát về tâm lý giáo dục, Phương diện xúc cảm của trẻ em, Phát triển của trẻ em về phương diện trí tuệ, Phương pháp tìm hiểu học sinh, Tuổi trí tuệ của trẻ em

  • Giáo trình Giải phẫu sinh lý trẻ em [Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ từ xa]: Phần 2

    Phần 2 Giáo trình Giải phẫu sinh lý trẻ em [Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ từ xa] trình bày về hệ hô hấp, hệ tiêu hoá và quá trình hấp thu thức ăn, trao đổi chất và năng lượng điều hoà thân nhiệt, hệ bài tiết, hệ nội tiết, hệ sinh dục.

     55 p tdmu 30/10/2015 1039 5

    Từ khóa: Giải phẫu sinh lý trẻ em, Sinh lý trẻ em, Hệ hô hấp, Hệ tiêu hoá, Quá trình hấp thu thức ăn, Trao đổi chất

  • Giáo trình Giải phẫu sinh lý trẻ em [Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ từ xa]: Phần 1

    Phần 1 Giáo trình Giải phẫu sinh lý trẻ em [Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ từ xa] trình bày đại cương về cơ thể người và sự phát triển của cơ thể, tính quy luật về sự sinh trưởng và phát triển của cơ thể, hệ thần kinh, cơ quan phân tích, hệ vận động, hệ tuần hoàn.

     88 p tdmu 30/10/2015 3667 4

    Từ khóa: Giải phẫu sinh lý trẻ em, Sinh lý trẻ em, Hệ thần kinh, Cơ quan phân tích, Hệ vận động, Hệ tuần hoàn

  1. Trang Chủ /
  2. Số cũ /
  3. Số. 10[88] [2016]: Khoa học Giáo dục /
  4. Bài viết A

Sự tăng tốc trong sinh trưởng và phát triển tâm sinh lí học sinh tiểu học [HSTH] đã đặt ra yêu cầu phải đưa nội dung giáo dục giới tính [GDGT] vào chương trình tiểu học. Hầu hết các trường tiểu học tại Thành phố Hồ Chí Minh [TPHCM] đã bước đầu quan tâm đến vấn đề này. Kết quả khảo sát giáo viên [GV] ở 23 trường tiểu học cho thấy đa số giáo viên tiểu học [GVTH] mong muốn học sinh [HS] được học nhiều hơn kiến thức liên quan đến GDGT và kĩ năng bảo vệ bản thân. Nhưng trong thực tế, hầu hết các nội dung GDGT chỉ được triển khai theo chương trình bắt buộc của HSTH, với phương tiện dạy học chủ yếu là sách giáo khoa [SGK] và sử dụng phương pháp thảo luận nhóm hoặc thuyết trình.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠODỰ ÁN PHÁT TRIỂN GIÁO VIÊN TIỂU HỌCPGS. TRẦN TRỌNG THỦYSINH LÍ HỌC TRẺ EM[Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng và đại học sư phạm]NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠMChịu trách nhiệm xuất bản:Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁIGiám đốc ĐINH NGỌC BẢOPhó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAOTổng biên tập LÊ ABiên tập nội dung:PHẠM NGỌC BẮCThiết kế sách và Biên tập mĩ thuật:TRẦN THỊ PHUƠNGTrình bày bìa:PHẠM VIỆT QUANG1Mục lụcTrangLời nói đầu ............................................................................................................... 5Tổng quan về tài liệu.............................................................................................. 6Chủ đề 1. Khái quát về sinh lí học trẻ em ............................................................ 7Hoạt động 1. Tự nghiên cứu khái niệm tăng truởng, phát triển và các quyluật của chúng .......................................................................................................... 7Hoạt động 2. Phân tích hình vẽ để rút ra quy luật về sự tăng truởng vàphát triển................................................................................................................. 11Hoạt động 3. Tự nghiên cứu về các phuơng pháp nghiên cứu sinh lí họctrẻ em ..................................................................................................................... 13Chủ đề 2. Sinh lí hệ thần kinh và các cơ quan phân tích của trẻ em.............. 17Hoạt động 1. Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và sự phát triển của hệ thần kinhở con người ............................................................................................................ 17Hoạt động 2. Tìm hiểu hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ em tiểu học ................. 22Hoạt động 3. Nêu và giải thích các quy luật cơ bản của hoạt động thầnkinh cấp cao............................................................................................................ 27Hoạt động 4. Tìm hiểu chung về cơ quan phân tích .............................................. 33Chủ đề 3. Sinh lí hệ nội tiết và hệ sinh dục của trẻ em .................................... 41Hoạt động 1. Tìm hiểu sinh lí hệ nội tiết................................................................. 41Hoạt động 2. Tìm hiểu hệ sinh dục ........................................................................ 46Chủ đề 4. Sinh lí hệ cơ – xương của trẻ em...................................................... 51Hoạt động 1. Tìm hiểu sinh lí hệ xương................................................................. 51Hoạt động 2. Tìm hiểu sinh lí hệ cơ ....................................................................... 54Chủ đề 5. Các hệ dinh dưỡng của trẻ em .......................................................... 59Hoạt động 1. Tìm hiểu sinh lí tuần hoàn ................................................................ 59Hoạt động 2. Tìm hiểu sinh lí hô hấp ..................................................................... 65Hoạt động 3. Tìm hiểu sinh lí tiêu hóa.................................................................... 68Chủ đề 6. Sự trao đổi chất của trẻ em................................................................ 79Hoạt động 1. Tìm hiểu vai trò của trao đổi chất ..................................................... 79Hoạt động 2. Tìm hiểu sự trao đổi chất và năng lượng ......................................... 83Hoạt động 3. Tìm hiểu vấn đề dinh dưỡng ở trẻ em.............................................. 842LỜI NÓI ĐẦUNhằm góp phần đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viênTiểu học, Dự án phát triển giáo viên Tiểu học đã tổ chức biên soạncác môđun đào tạo và bồi dưỡng giáo viên theo chương trình Caođẳng Sư phạm và chương trình liên thông từ Trung học Sư phạm lênCao đẳng Sư phạm.Điểm đổi mới của các tài liệu môđun là thiết kế theo các hoạt động,nhằm tích cực hoá các hoạt động học tập của người học, theo hướngkích thích óc sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề của người học;chú trọng sử dụng tích hợp nhiều phương tiện truyền đạt khác nhaunhư tài liệu in, băng hình / băng tiếng..., giúp cho người học dễ học,dễ hiểu và gây được hứng thú học tập.Lần đầu tiên, tài liệu được biên soạn theo chương trình và phươngpháp mới, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Banđiều phối Dự án rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chânthành của bạn đọc, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, sinh viên cáctrườngSư phạm, giáo viên Tiểu học trong cả nước.Trân trọng cảm ơn.Dự án Phát triển Giáo viên tiểu học3TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆUSINH LÍ HỌC TRẺ EM [30 TIẾT]Mục tiêuKiến thứcMô tả được cấu tạo và trình bày được đặc điểm sinh lí trẻ em của hệ thầnkinh và hoạt động thần kinh cấp cao, hoạt động của các cơ quan phân tích,các tuyến nội tiết, hệ vận động, hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết vàtrao đổi chất.Kĩ năngVận dụng được những kiến thức về Sinh lí học trẻ em vào việc tìm hiểu vàứng dụng các đặc điểm tâm lí của trẻ, vào việc tổ chức dạy học, vàophương pháp giáo dục và lịch hoạt động cho phù hợp với các đặc điểm sinhlí của lứa tuổi tiểu học, giúp trẻ giữ vệ sinh và rèn luyện cơ thể.Thái độTôn trọng môn học này, coi nó là cơ sở để học các môn khác, trước hết làTâm lí học vàGiáo dục học. Có tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển của trẻ, có tháiđộ khuyến khích, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ phùhợp với đặc điểm sinh lí - cơ thể của học sinh tiểu học.Giới thiệu mô đunTT Tên chủ đề Số tiết1 Khái quát về Sinh lí học trẻ em 22 Sinh lí hệ thần kinh và các cơ quan phân tích của trẻ em 103 Sinh lí hệ nội tiết và sinh dục của trẻ em 24 Sinh lí hệ cơ xương của trẻ em 45 Các hệ dinh dưỡng của trẻ em [tuần hoàn, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết] 106 Sự trao đổi chất của trẻ em 2Tài liệu tham khảo và thiết bị để thực hiện mô đunTài liệu tham khảo:1. Trần Trọng Thuỷ [Chủ biên]: “Giải phẫu, sinh lí, vệ sinh trẻ em”. NXBGiáo dục, 1988.2. Lê Thanh Vân: “Giáo trình Sinh lí học trẻ em”. NXB Đại học Sư phạm,2004.3. Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan: “Sinh lí học trẻ em”. NXB Đại học Sư phạm,2003.Thiết bị: Băng hình, băng tiếng, máy phát hình, máy phát tiếng.4CHỦ ĐỀ 1[2 tiết]KHÁI QUÁT VỀ SINH LÍ HỌC TRẺ EMHoạt động 1. Tự nghiên cứu khái niệm tăng trưởng,phát triển và các quy luật của chúngThông tinA. Thông tin cơ bảnSự tăng trưởng và phát triển của cơ thể trẻ em1.1. Cơ thể trẻ em là một thể thống nhấtCơ thể trẻ em không phải là một phép cộng của các cơ quan hay tế bàoriêng lẻ. Mọi cơ quan, mô và tế bào đều được liên kết với nhau thành một khối thống nhất trong cơ thể. Sự thống nhất ấy được thể hiện ở những mặtsau:– Sự thống nhất giữa đồng hoá và dị hoá: Trong cơ thể luôn luôn tiếnhành hai quá trình liên hệ mật thiết với nhau: đồng hoá và dị hoá.Quá trình đồng hoá là quá trình xây dựng các chất phức tạp mới từ các chấtlấy ở bên ngoài vào.Quá trình dị hoá là quá trình phân huỷ các chất phức tạp của nguyên sinhchất thành các chất đơn giản.Quá trình dị hoá tạo ra năng lượng. Năng lượng này một mặt được dùngvào quá trình đồng hoá, mặt khác dùng để thực hiện các quá trình sốngtrong các bộ phận của cơ thể.Khi cơ thể còn trẻ, đồng hoá mạnh hơn dị hoá. Khi cơ thể đã già, dị hoá lạimạnh hơn đồng hoá.Sự sống chỉ giữ được nếu môi trường bên ngoài luôn luôn cung cấp cho cơthể oxi và thức ăn, và nhận của cơ thể những sản phẩm phân huỷ. Đó là quátrình trao đổi chất của cơ thể và môi trường.– Sự thống nhất giữa cấu tạo và chức phận: Chính sự trao đổi chất quyếtđịnh hoạt động và cấu tạo hình thái cơ thể nói chung, và của từng bộ phậnnói riêng. Chức phận và cấu tạo của cơ thể là kết quả của sự phát triển cáthể và chủng loại của cơ thể. Giữa chức phận và hình thái cấu tạo có mốiliên hệ khăng khít và phụ thuộc lẫn nhau. Trong hai mặt đó, chức phận giữvai trò quyết định, vì chức phận trực tiếp liên hệ với trao đổi chất. Chẳnghạn, lao động và ngôn ngữ đã quyết định cấu tạo của con người khác vớikhỉ hình người.– Sự thống nhất giữa các cơ quan trong cơ thể: Sự thống nhất giữa các cơquan trong cơ thể được diễn ra theo 3 hướng:Một bộ phận này ảnh hưởng đến các bộ phận khác, ví dụ, khi ta lao động…cơ làm việc, tim đập nhanh hơn, nhịp thở gấp hơn. Sau khi lao động, ta ănngon hơn, mồ hôi ra nhiều hơn, nước tiểu cũng thay đổi thành phần.Toàn bộ cơ thể ảnh hưởng đến một bộ phận, ví dụ, hiện tượng đói là ảnhhưởng của toàn bộcơ thể đến cơ quan tiêu hoá.Trong từng cơ quan có sự phối hợp giữa các thành phần cấu tạo với nhau,ví dụ, tay co là do sự phối hợp giữa hai cơ nhị đầu và tam đầu; đồng tử codãn được là do sự phối hợp của cơ phóng xạ và cơ đồng tâm.– Sự thống nhất giữa cơ thể với môi trường: Khi môi trường thay đổi thìcơ thể cũng phải có những thay đổi bên trong, những phản ứng cho phù hợpvới sự thay đổi của môi trường. Nếu không, cơ thể sẽ không tồn tại được.Khả năng này của cơ thể được gọi là tính thích nghi – một đặc tính chungcủa sinh học. Ví dụ, khi trời lạnh, ta “nổi da gà”. Đó chính là một sự thíchnghi của cơ thể đối với thời tiết: Các cơ dựng lông co lại để giữ cho nhiệttrong cơ thể đỡ thoát ra ngoài. Đó là loại thích nghi nhanh. Những động vật5kiếm ăn ban đêm thì có tế bào gậy [của võng mạc] phát triển, còn tế bàonón kém phát triển. Lượng hồng cầu của người sống ở các vùng rẻo caonhiều hơn so với người ở đồng bằng vì ở trên độ cao thì không khí ít oxihơn, khả năng kết hợp oxi của hồng cầu kém hơn. Loại thích nghi này làloại thích nghi chậm. Tính thích nghi ở con người mang tính chủ động,không như ở động vật khác: Ta chống rét bằng áo ấm, lò sưởi, chứ khôngthụ động bằng cách “nổi da gà”!1.2. Các quy luật chung của sự tăng trưởng và phát triểnSự phát triển của con người là một quá trình liên tục, diễn ra trong suốt cảcuộc đời. ở mỗi một giai đoạn phát triển cơ thể, cơ thể đứa trẻ là một chỉnhthể hài hoà với những đặc điểm vốn có đối với giai đoạn tuổi đó.Mỗi một giai đoạn tuổi đều chứa đựng các vết tích của giai đoạn trước,những cái hiện có của giai đoạn này và những mầm mống của giai đoạnsau. Như vậy, mỗi một lứa tuổi là một hệ thống cơ động độc đáo, ở đó vếttích của giai đoạn trước dần dần bị xoá bỏ, cái hiện tại và tương lai đượcphát triển, rồi cái hiện tại lại trở thành cái quá khứ và mầm mống của cáitương lai lại trở thành cái hiện tại, rồi những phẩm chất mới lại được sinh –những mầm mống của cái tương lai. Giáo dục phải xác định được cái hiệncó và dựa trên mầm mống của cái tương lai màtổ chức việc dạy học và giáodục cho thế hệ trẻ.Sự phát triển trước hết được thể hiện ở sự tăng trưởng hay lớn lên của cơthể, của các cơ quan riêng lẻ và ở sự tăng cường các chức năng của chúng.Sự tăng trưởng của các cơ quan khác nhau diễn ra không đồng đều vàkhông đồng thời, vì vậy mà tỉ lệ cơ thể bị thay đổi.Nhịp độ tăng trưởng của cơ thể cũng không đồng đều. Chẳng hạn, ở tuổidậy thì cơ thể lớn nhanh, nhưng sau đó thì chậm lại.Đặc trưng của sự tăng trưởng là sự thay đổi về số lượng những dấu hiệuvốn có của cơ thể, về sự tăng lên hay giảm đi những dấu hiệu đó.Đặc trưng của sự phát triển là những biến đổi về chất của cơ thể, là sự xuấthiện những dấu hiệu và thuộc tính được hình thành ngay trong quá trìnhtăng trưởng. Quá trình phát triển này diễn ra một cách từ từ, liên tục nhưngđồng thời cũng có những bước nhảy vọt, những “ngắt quãng của sự liêntục”. Những giai đoạn đầu tiên của quá trình này diễn ra khi còn là bào thaitrong bụng mẹ. Quá trình phát triển của cơ thể đi từ đơn giản đến phức tạp,từ chỗ chưa phân hoá đến phân hoá. Nó phân chia các bộ phận, các cơquan, các yếu tố và hợp nhất chúng lại thành một toàn bộ mới, một cơ cấumới. Sự hình thành những cơ cấu mới là sự xuất hiện những phẩm chất mớicủa con người đang phát triển, nó diễn ra ở cả mặt hình thái lẫn cả mặt chứcnăng, sinh hoá, sinh lí và tâm lí.Sự phát triển cơ thể con người được biểu hiện qua các chỉ số đo người:chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chiều rộng của vai, v.v... Trong đó, chiềucao và cân nặng là hai chỉ số cơ bản.Chiều cao tăng lên rõ rệt trong thời kì bú mẹ và trong thời kì đầu của tuổinhà trẻ. Sau đó nó lại chậm lại ít nhiều. Lúc 6 – 7 tuổi, chiều cao lại tăngnhanh và đạt tới 7 – 10cm trong 1 năm. Đó là thời kì vươn dài người ra.Sau đó, lúc 8 – 10 tuổi thì sự tăng trưởng bị chậm lại, hằng năm chỉ đạt 3 –5cm [thời kì tròn người], đến lúc bắt đầu dậy thì [11 – 15 tuổi] lại được tiếptục tăng nhanh, từ 5 – 8cm trong 1 năm [thời kì thứ hai của sự vươn dàingười ra].Cân nặng: Giữa chiều cao và cân nặng không có sự phụ thuộc theo một tỉlệ nghiêm ngặt nào, nhưng thông thường trong cùng một lứa tuổi thì những6trẻ cao hơn có cân nặng lớn hơn. Nhịp độ tăng trọng lớn nhất ở năm đầucủa đời sống. Tới cuối năm thứ nhất thì cân nặng được tăng lên 3 lần. Sauđó cân nặng tăng thêm trung bình mỗi năm 2kg.1.3. Các giai đoạn phát triển sinh lí theo lứa tuổiCó nhiều cách phân loại các thời kì [giai đoạn] phát triển khác nhau của cơthể. Cách phân loại của A.F. Tua, đã được sử dụng rộng rãi ở nước ta, nhưsau:– Thời kì phát triển trong bụng mẹ [270 – 280 ngày], gồm:+ Giai đoạn phôi thai [3 tháng đầu];+ Giai đoạn nhau thai nhi [từ tháng 4 đến khi sinh].– Thời kì sơ sinh [từ lúc lọt lòng đến 1 tháng].– Thời kì bú mẹ [nhũ nhi]: kéo dài đến hết năm đầu.– Thời kì răng sữa [12 đến 60 tháng], gồm 2 giai đoạn nhỏ:+ Giai đoạn nhà trẻ: 1 – 3 tuổi;+ Giai đoạn mẫu giáo: 4 – 6 tuổi.– Thời kì thiếu niên [7 – 15 tuổi], gồm 2 giai đoạn nhỏ:+ Giai đoạn học sinh nhỏ: 7 – 12 tuổi;+ Giai đoạn học sinh lớn: 12 – 15 tuổi.– Thời kì dậy thì [tuổi học sinh Trung học phổ thông].Trẻ càng nhỏ thì điều kiện sống ảnh hưởng càng lớn đến sự phát triển thểchất của trẻ.1.4. Mối quan hệ giữa sinh lí và tâm lí trong hoạt động của cơ thểSự phát triển tâm lí của trẻ em diễn ra trên cơ sở phát triển giải phẫu – sinhlí của nó, đặc biệt là sự phát triển của hệ thần kinh và các giác quan. Ngườita thường nói: “Một tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể cường tráng” làvì vậy. Ví dụ, các em bé bị tật não nhỏ thì thường bị thiểu năng trí tuệ[chậm phát triển trí tuệ]; các em bị thiếu bán cầu đại não thì không có khảnăng học nói, học đi và các vận động có phối hợp khác. Sự kém phát triểnvà chức năng suy yếu của tuyến giáp trạng dẫn đến sự trì trệ của trí tuệ. ảnhhưởng thuận lợi của các biến đổi sinh lí đến khả năng làm việc trí óc đượcthể hiện sau những động tác thể dục giữa giờ. Tất cả những ví dụ trên đãnói lên ảnh hưởng của sự phát triển cơ thể đến sự phát triển tâm lí của trẻ.Mặt khác, bản thân sự phát triển tâm lí cũng lại có ảnh hưởng nhất định đếnsự phát triển cơ thể của trẻ. Chẳng hạn, sự phát triển của hoạt động ngônngữ đã làm phát triển cái tai âm vị của trẻ; những luyện tập có động cơ, cómục đích có thể làm tăng tính nhạy cảm của các cơ quan phân tích, hoặcphục hồi được các chức năng đã bị phá huỷ của cơ thể. Trong mối quan hệqua lại giữa sự phát triển cơ thể và sự phát triển tâm lí của đứa trẻ thì sựphát triển cơ thể là tiền đề cho sự phát triển tâm lí.B. Thông tin bổ trợ: Tài liệu [2] từ trang 25 đến 43.Nhiệm vụNhiệm vụ 1: Đọc các thông tin và tài liệu tham khảo trên.Nhiệm vụ 2: Thảo luận theo nhóm các câu hỏi:– Thế nào là tăng trưởng? Cho ví dụ.– Thế nào là phát triển? Cho ví dụ.– Chúng giống và khác nhau như thế nào?Nhiệm vụ 3: Thảo luận câu hỏi: “Có những quy luật chung nào của sự tăngtrưởng và phát triển? Cho ví dụ minh hoạ”.Đánh giáCâu hỏi 1: Nêu các biểu hiện của sự tăng trưởng?Câu hỏi 2: Nêu các biểu hiện của sự phát triển?7Câu hỏi 3: Có những quy luật chung nào của sự tăng trưởng và phát triển?Hoạt động 2. Phân tích hình vẽ để rút ra quy luậtvề sự tăng trưởng và phát triểnThông tinHai hình vẽ 1 và 2.Hình 1. Sự biến đổi tỉ lệ của thân thể theo tuổia] Độ tăng thêm về chiều dài của thân thể ở em trai và em gáib] Độ tăng thêm về cân nặng của thân thể ở em trai và em gáiHình 2Nhiệm vụNhiệm vụ 1: Xem kĩ hai hình 1 và 2.Nhiệm vụ 2: Phân tích nội dung, ý nghĩa của 2 hình đó.Nhiệm vụ 3: Rút ra kết luận về quy luật tăng trưởng và phát triển về tỉ lệgiữa các phần thân thể, về chiều cao và cân nặng của trẻ em.Đánh giáCâu hỏi 1: Dựa vào các quy luật tăng trưởng và phát triển, hãy giải thích tạisao trẻ em cuối bậc Tiểu học hay “lóng ngóng”, “đụng đâu vỡ đấy”?Câu hỏi 2: Cần có thái độ xử sự ra sao trước những hành vi, cử chỉ vụng vềđó của trẻ?Hoạt động 3. Tự nghiên cứu về các phương phápnghiên cứu sinh lí học trẻ emThông tin3.1. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của Sinh lí học trẻ em3.1.1. Đối tượng nghiên cứu của Sinh lí học trẻ emSinh lí học trẻ em là một ngành của Sinh lí học người và động vật, cónhiệm vụ nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của các chứcnăng sinh lí của cơ thể trẻ em. Trọng tâm của giáo trình này là những vấnđề có ý nghĩa nhất đối với hoạt động thực tiễn của người giáo viên và nhàgiáo dục nói chung.3.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Sinh lí học trẻ emSinh lí học trẻ em có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:1] Cung cấp những kiến thức về các đặc điểm giải phẫu và sinh lí của trẻ emvà thiếu niên cần thiết cho công tác của các nhà giáo dục.2] Hình thành sự hiểu biết biện chứng đúng đắn về những quy luật sinh họccơ bản của sự phát triển cơ thể trẻ em và thiếu niên.3] Làm quen với những cơ sở phản xạ có điều kiện của các quá trình dạy họcvà giáo dục trẻ em và thiếu niên.4] Làm quen với các cơ chế sinh lí của các quá trình tâm lí phức tạp như cảmgiác, tri giác, chú ý, trí nhớ, tư duy những cơ sở sinh lí của ngôn ngữ vàcác phản ứng xúc cảm.5] Phát triển ở người giáo viên tương lai kĩ năng sử dụng các kiến thức vềđặc điểm hình thái – chức năng của cơ thể trẻ em và thiếu niên và về sinhlí hoạt động thần kinh cấp cao [TKCC] của chúng khi tổ chức hoạt độngdạy học và giáo dục, khi phân tích các quá trình và hiện tượng sư phạm.3.1.3. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản của Sinh lí học trẻ emCó 3 phương pháp cơ bản được dùng trong các nghiên cứu về Sinh lí họclứa tuổi: quan sát, thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thínghiệm.a. Phương pháp quan sát: là phương pháp mà nhờ nó nhà nghiên cứu trigiác và ghi chép được một cách có mục đích, có kế hoạch những biểu hiệnđa dạng của cơ thể con người [trẻ em] và sự phát triển của nó, cùng với8những điều kiện diễn biến của chúng.– ưu điểm của phương pháp: đơn giản, không tốn kém, lại có thể thu thậpđược những tài liệu thực tế, phong phú, trực tiếp từ đời sống và hoạt độngcủa người mà ta nghiên cứu.– Nhược điểm của phương pháp: Người nghiên cứu không thể trực tiếp canthiệp vào diễn biến tự nhiên của hiện tượng mà mình nghiên cứu, vì vậykhông thể làm thay đổi, làm tăng nhanh hay chậm lại hoặc lập lại một sốlần cần thiết đối với nó được. I.P. Pavlov đã viết: “Quan sát thu thập nhữngcái mà thiên nhiên phô bày ra, còn thí nghiệm lấy của thiên nhiên cái tamuốn”.b. Phương pháp thực nghiệm: là phương pháp mà nhà nghiên cứu có thểchủ động gây nên hiện tượng mà mình cần nghiên cứu, sau khi đã tạo ranhững điều kiện cần thiết; đồng thời có thể chủ động loại trừ những yếu tốngẫu nhiên, chủ động thay đổi, làm nhanh lên hay chậm lại hoặc lặp lạidiễn biến của hiện tượng đó nhiều lần.Có hai loại thực nghiệm: tự nhiên và trong phòng thí nghiệm.+ Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện tự nhiên, quenthuộc với người được nghiên cứu như trong nhà trẻ, trong lớp học và ngườiđược nghiên cứu không biết rằng mình đang bị thực nghiệm.+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành trong những phòngthí nghiệm đặc biệt, có trang bị những phương tiện kĩ thuật cần thiết. Nócung cấp cho chúng ta những số liệu chính xác, tinh vi. Song nó cũng cónhược điểm là người được nghiên cứu luôn luôn biết mình đang bị thựcnghiệm, điều này có thể gây nên ở họ một sự căng thẳng thần kinh khôngcần thiết; mặt khác, bản thân các điều kiện thực nghiệm là không bìnhthường, là nhân tạo.Tất cả các phương pháp nghiên cứu của Sinh lí học trẻ em được sử dụngđều gắn với cái gọi là phương pháp “cắt ngang” và “bổ dọc”.Phương pháp “cắt ngang” cần thiết cho nhà nghiên cứu trong việc xây dựngcác “tiêu chuẩn theo lứa tuổi” đối với các chức năng này khác của trẻ em vàthiếu niên. Điều này liên quan đến việc nghiên cứu các nhóm lớn nhữngnghiệm thể thuộc lứa tuổi và giới tính khác nhau và đến việc xác lập mứcđộ phát triển chức năng điển hình nhất, nghĩa là trung bình, đối với mỗinhóm [ví dụ, xác định tần số nhịp đập của tim ở em trai và em gái thuộc cácnhóm tuổi khác nhau].Phương pháp “bổ dọc”, khắc phục thiếu sót của phương pháp “cắt ngang”[không chẩn đoán và dự báo được sự phát triển cá thể của các chức năng]:nó thực hiện việc nghiên cứu trên cùng những nghiệm thể nhất định trongquá trình phát triển cá thể của chúng.3.2. ý nghĩa của Sinh lí học trẻ emMôn Sinh lí học trẻ em có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn và là một trongnhững thành tố cần thiết và quan trọng nhất của học vấn sư phạm.Nhiệm vụNhiệm vụ 1: Đọc kĩ các thông tin trên.Nhiệm vụ 2: Nêu tên các phương pháp cơ bản của Sinh lí học trẻ em. Phântích ưu, khuyết điểm của mỗi phương pháp và điền vào bảng sau:Các phương pháp Ưu điểm Nhược điểm1. .................................... ................................ ...........................2. .................................... ................................ ...........................3. .................................... ................................ ...........................Nhiệm vụ 3: Từ sự phân tích trên [nhiệm vụ 2], hãy rút ra kết luận cần thiết9về việc sử dụng các phương pháp Sinh lí học lứa tuổi.Đánh giáCâu hỏi 1: Hãy bình luận câu nói của I. P. Pavlov đối với thanh niên “Sựkiện là không khí của nhà khoa học. Loài chim dù có đôi cánh khoẻ cũngkhông thể bay cao nếu không có điểm tựa là không khí. Mọi lí thuyết nếuthiếu sự kiện sẽ giống những bong bóng xà phòng, hào nhoáng nhưng trốngrỗng”.Câu hỏi 2: Trong những trường hợp nào thì dùng phương pháp “cắt ngang”hay “bổ dọc”?Thông tin phản hồiThông tin phản hồi cho Hoạt động 1Câu hỏi 1: Sự thay đổi về số lượng những dấu hiệu vốn có của cơ thể, sựtăng lên hay giảm đi của các dấu hiệu đó.Câu hỏi 2: Sự thay đổi về chất lượng của cơ thể, sự xuất hiện những dấuhiệu và thuộc tính được hình thành ngay trong quá trình tăng trưởng.Câu hỏi 3: Không đồng đều, không đồng thời; từ từ và nhảy vọt; từ đơngiản đến phức tạp; từ chưa phân hoá đến phân hoá…Thông tin phản hồi cho Hoạt động 2Câu hỏi 1: Quy luật tăng trưởng và phát triển không đồng đều giữa cơ vàxương.Câu hỏi 2: Người lớn cần ôn tồn, thông cảm, động viên.Thông tin phản hồi cho Hoạt động 3Câu hỏi 1: Phân tích vai trò và ý nghĩa của quan sát trong hoạt động nhậnthức của thanh niên.Câu hỏi 2: Trong trường hợp nghiên cứu ngắn hạn, một lần và trong trườnghợp nghiên cứu trường diễn.----------------------10CHỦ ĐỀ 2 [10 tiết]SINH LÍ HỆ THẦN KINH VÀ CÁC CƠ QUAN PHÂN TÍCH CỦA TRẺ EMHoạt động 1. Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và sự phát triển của hệ thần kinh ở con ngườiThông tin chủ đềSinh lí hệ thần kinh ... [1]A. Thông tin cơ bản1.1. Cấu tạo và chức phận của hệ thần kinh ngườiHệ thần kinh của người gồm 2 phần: trung ương và ngoại biên [xem hình 3].Hệ thần kinh trung ương gồm: não bộ và tuỷ sống.Hệ thần kinh ngoại biên gồm các cơ quan thụ cảm và các dây thần kinh.a/ Dây thần kinh hướng tâm: gồm các sợi thần kinh dẫn truyền xung động từ cơ quan thụ cảm về trung ương, b/ Dây thần kinh li tâm gồm các sợi dẫn truyền xung động từ trung ương đến các cơ quan trả lời kích thích, c/ Dây thần kinh pha gồm cả hai loại sợi [li tâm và hướng tâm]. Các sợi thần kinh cảm giác liên hệ với các cơ quan thụ cảm.Hệ thần kinh được cấu tạo từ những đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản là các tế bào thần kinh hay nơron. Nhờ khả năng tiếp nhận, xử lí và chuyển giao thông tin vô cùng phức tạp của nơron mà cơ thể có được những phản ứng thích hợp với các kích thích tác động vào cơ thể.Não bộ gồm các phần: hành tuỷ, tiểu não, não giữa, não trung gian và bán cầu đại não. Bán cầu đại não là bộ phận phát triển nhất, chiếm 80% khối lượng của não bộ [xem hình 4]. Bán cầu đại não gồm hai nửa phải và trái.Bề mặt bán cầu đại não có nhiều nếp nhăn, chia bán cầu thành các thuỳ và hồi não. Mỗi bán cầu có 3 nếp nhăn lớn: rãnh Sylvius, rãnh Rôlanđô và rãnh thẳng góc. Ba rãnh này chia bán cầu não thành 4 thuỳ: trán, đỉnh, chẩm và thái dương.Cấu tạo bên trong của bán cầu đại não gồm có chất trắng và chất xám. Chất trắng là các sợi thần kinh gồm 3 loại: sợi liên hợp, sợi liên bán cầu và sợi liên lạc. Chất xám gồm các nhân nơron nằm ở bên trong bán cầu [nhân dưới vỏ] và vỏ não. Vỏ não là bộ phận phát triển muộn hơn các phần khác nên có cấu tạo và chức năng phức tạp hơn; nơi đây diễn ra hoạt động thần kinh cấp cao, hoạt động tâm lí của con người. Trên vỏ não người có các trung khu ngôn ngữ: trung khu vận động nói, trung khu vận động viết, trung khu hiểu tiếng nói, trung khu hiểu chữ viết. Các trung khu này không có ở vỏ não của động vật.Hình 3. Hệ thần kinh1. Não bộ; 2. Tủy sống; 3. Hệ thần kinh ngoại biênHình 4. Não bộ cắt dọc theo chiều trước sauTuỷ sống là phần cổ xưa nhất của hệ thần kinh ở động vật có xương sống, có chức phận bảo đảm những mối liên hệ đơn giản nhất của cơ thể với thế giới bên ngoài. Tuỷ sống của người là một khối hình trụ dài, có màng bao bọc nằm trong cột sống. Nếu cắt ngang tuỷ sống, ta sẽ phân biệt rất rõ chất xám và chất trắng. Chất xám có hình con bướm đang mở cánh, hay giống hình chữ H nằm ở giữa tuỷ sống, nó có sừng trước và sừng sau. Sừng trước là nơi xuất phát của rễ vận động, được tạo nên bởi trục của nhiều tế bào thần kinh. Sừng sau là nơi đi vào của trục các tế bào cảm giác, những tế bào này nằm ở trong các hạch gian đốt sống của rễ sau. Chất trắng bao quanh chất xám và được tạo nên bởi vô số những bó sợi thần kinh chạy dọc theo chiều cột sống; các bó này tạo thành cột trước, cột bên và cột sau của não.Từ tuỷ sống phát đi 31 đôi dây thần kinh tuỷ. Mỗi dây thần kinh tuỷ là do các sợi trục liên quan đến rễ trước và rễ sau nhập vào nhau mà thành. Phần tuỷ sống ứng với mỗi đôi dây thần kinh tuỷ gọi là đốt tuỷ. Mỗi một dây thần kinh xuất phát từ tuỷ sống gồm các sợi dây cảm giác và sợi dây vận động, chúng đi đến các cơ quan khác nhau [cơ, da, tuyến…]. Tuỷ sống là một trung khu phản xạ quan trọng, bảo đảm cho các cử động máy móc, trả lời các kích thích muôn vẻ.1.2. Vai trò của hệ thần kinh ngườiNhờ có hệ thần kinh nói chung và bộ phận trung ương nói riêng – não bộ và tuỷ sống – mà cơ thể tiếp nhận được tất cả mọi biến đổi xảy ra trong môi trường bên trong và bên ngoài, và phản 11ứng lại một cách tích cực đối với những biến đổi đó, làm thay đổi quan hệ của mình đối với chúng.Hệ thần kinh bảo đảm hoạt động thống nhất của các mô và cơ quan với nhau, điều chỉnh sự hoạt động của chúng làm cho hoạt động của các cơ quan thích nghi với những điều kiện luôn thay đổi của môi trường bên ngoài trong từng thời điểm riêng lẻ cũng như trong suốt cuộc đời của cơ thể.Nhờ có phần cao cấp của hệ thần kinh – bán cầu đại não và đặc biệt là vỏ não – mà con người có tư duy và tâm lí. Vỏ não là cơ sở vật chất của toàn bộ hoạt động tâm lí của con người. Hệ thần kinh chính là cơ quan điều khiển, điều hoà và phối hợp các hoạtđộng của cơ thể như là một khối thống nhất.1.3. Sự phát triển của hệ thần kinh ở trẻ em tiểu họcCho tới lúc ra đời, não bộ của đứa trẻ vẫn chưa được phát triển đầy đủ, mặc dù có cấu tạo và hình thái không khác với não của người lớn là mấy. Nó có kích thước nhỏ hơn và trọng lượng khoảng 370 – 392g. Trọng lượng của não tăng lên mạnh mẽ trong 9 năm đầu tiên. Tới tháng thứ 6, trọng lượng của não đã tăng gấp đôi; tới 3 tuổi – tăng gấp ba; lúc 3 tuổi thì trung bình là 1300g – chỉ kém não người lớn có 100g mà thôi! ở tuổi dậy thì, trọng lượng não hầu như không thay đổi. Nhưng sự thật thì có những biến đổi về tế bào học và về chức năng rất tinh vi trong tất cả các giai đoạn phát triển, bao gồm cả tuổi dậy thì. Sự phát triển của các đường dẫn truyền diễn ra rất mạnh mẽ, tăng lên theo tuổi và được tiếp tục đến 14 – 15 tuổi, do đó cấu tạo tế bào của vỏ não của trẻ em 7 tuổi về cơ bản giống với người lớn. Sự myêlin hóa sợi thần kinh là một giai đoạn phát triển quan trọng của não bộ, làm cho hưng phấn được truyền đi một cách riêng biệt theo các sợi thần kinh, do đó hưng phấn đi đến vỏ não một cách chính xác, có định khu, làm cho hoạt động của trẻ hoàn thiện hơn. Gần tới 2 tuổi thì quá trình myêlin hoá được hoàn tất về cơ bản.Khoảng giữa 7 – 14 tuổi, các rãnh và hồi não đã có hình dáng giống của người lớn.Sau khi sinh, tiểu não bắt đầu tăng trưởng mạnh, từ 3 tháng đã có sự phân hoá trong cấu trúc tế bào của tiểu não. Trong khoảng từ 1 đến 2 tuổi thì tiểu não của trẻ có khối lượng và kích thước tương đối gần với tiểu não của người lớn.Tới 5 – 6 tuổi thì hành tuỷ và não giữa giữ vị trí giống như vị trí có được ở người lớn xét về mặt chức năng.Sau năm đầu, khối lượng của tuỷ sống được tăng gấp đôi, tới 5 tuổi – gấp ba và lúc 14 – 15 tuổi tăng gấp 4 – 5 lần.Hoạt động TKCC của trẻ phát triển cùng với sự trưởng thành về hình thái của não bộ. Những năm đầu tiên của trẻ là giai đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ của hoạt động TKCC. Cũng trong giai đoạn đó, các cơ quan cảm giác và các phần vỏ não của cơ quan phân tích được phát triển. Hệ vận động được phát triển với nhịp độ nhanh. Cuối cùng, hệ thống tín hiệu thứ hai – ngôn ngữ của trẻ – bắt đầu phát triểnB. Thông tin bổ trợTài liệu [1] từ trang 14 đến trang 25.Tài liệu [3] từ trang 19 đến trang 37.Nhiệm vụNhiệm vụ 1: Nêu khái quát cấu tạo của hệ thần kinh người [kết hợp chỉtrên tranh vẽ – H3].Nhiệm vụ 2: Nêu sự phát triển của hệ thần kinh ở lứa tuổi trẻ em tiểu học.Nhiệm vụ 3: Thảo luận nhóm về vai trò của hệ thần kinh.Đánh giáCâu hỏi 1: Hãy chỉ trên tranh các thành phần của hệ thần kinh người và nói chức phận của chúng [H.3 và H.4].Câu hỏi 2: Hãy tóm tắt những nét cơ bản của sự phát triển của hệ thần kinh ở trẻ em lứa tuổi tiểu học.Câu hỏi 3: Cấu tạo của vỏ não người có gì khác với vỏ não của động vật?12Đặc điểm của phản xạ không điều kiện – Bẩm sinh, di truyền, có tính chất chủng loại.– Rất bền vững.– Tác nhân kích thích thích ứng.– Đóng mở ở phần dưới vỏ não.– Báo hiệu trực tiếp kích thích gây raĐặc điểm của phản xạ có điều kiện– Tự tạo, được hình thành trong đời sống cá thể, đặc trưng cho cá thể.– Không bền vững.– Tác nhân kích thích bất kì.– Đóng mở ở vỏ não.– Báo hiệu gián tiếp kích thích gây ra phản xạ. phản xạ không điều kiện tương ứng.Hoạt động 2. Tìm hiểu hoạt động Thần kinh Cấp Cao ở trẻ em tiểu họcThông tinA. Thông tin cơ bản2.1. Học thuyết hoạt động thần kinh cấp cao của I.P. PavlovTheo I.P. Pavlov, phản xạ có điều kiện là đơn vị chức năng của hoạt động TKCC, được tạo ra trên cơ sở hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa các nhóm tế bào thần kinh khác nhau của vỏ não. Toàn bộ học thuyết được xây dựng theo 3 nguyên tắc dưới đây: – Nguyên tắc quyết định luận: Mọi phản xạ đều là phản ứng của cơ thể đối với những tác động từ môi trường bên ngoài hoặc bên trong cơ thể. Mỗi phản xạ đều có nguyên nhân gây ra nó. Pavlov đã chỉ ra rằng: Phản xạ là các phản ứng do hoạt động của não bộ tạo ra.– Nguyên tắc cấu trúc: Cơ chế sinh lí của phản xạ có điều kiện là các đường liên hệ thần kinh tạm thời. Bản thân các đường liên hệ thần kinh tạm thời bao giờ cũng do cấu trúc nhất định thực hiện, tạo thành các mối tươngquan chức năng mới trong quá trình phát triển cá thể.– Nguyên tắc phân tích và tổng hợp: Trong hoạt động thần kinh luôn luôn tồn tại hai quá trình – phân tích và tổng hợp. Quá trình phân tích xảy ra ngay tại các cơ quan thụ cảm. Vỏ bán cầu đại não đảm nhiệm chức năng phân tích và tổng hợp cao cấp. Vỏ bán cầu đại não điều khiển mọi hoạt động. Các đường liên hệ thần kinh tạm thời cũng như các hiện tượng tâm lí được hình thành trên vỏ não.2.2. Phản xạ không và có điều kiệnCác phản xạ của người và động vật gồm 2 nhóm: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.Phản xạ không điều kiện là phản ứng bẩm sinh của cơ thể. Phản xạ có điều kiện là phản ứng được hình thành trong quá trình sống của cá thể.Hai loại phản xạ này có những đặc điểm khác nhau như sau: 2.2.1. Cơ chế thành lập phản xạ có điều kiện:Theo Pavlov, phản xạ có điều kiện được thành lập trên cơ sở hình thành một con đường mới mà qua đó các luồng xung động thần kinh được dẫn truyền. Phản xạ có điều kiện được thiết lập sau khi đã có sự đóng lại của đường liên hệ thần kinh tạm thời giữa hai phần của vỏ não. Điều này đã dẫn Pavlov đến sự phân biệt 2 cơ chế phản xạ trong hệ thần kinh trung ương: cơ chế “dẫn” đối với phản xạ không điều kiện và cơ chế “nối” đối với phản xạ có điều kiện.Theo quan niệm của Pavlov, việc thành lập đường liên hệ thần kinh tạm thời chỉ có thể thực hiện được trong trường hợp trên vỏ não xuất hiện đồng thời 2 điểm hưng phấn: một điểm thuộc trung khu nhận kích thích có điều kiện [vô quan] và một điểm thuộc trung khu của phản xạ không điều kiện, hay nói chính xác hơn là điểm đại diện trên vỏ não của trung khu đó.Dần dần giữa 2 điểm đó hình thành một đường liên hệ tạm thời. Lúc đầu, Pavlov cho rằng đường liên hệ tạm thời được nối theo một chiều từ điểm hưng phấn yếu đến điểm hưng phấn mạnh. Sau này ông kết luận rằng đường liên hệ tạm thời xảy ra theo cả 2 chiều.2.2.2. Những điều kiện để thành lập phản xạ có điều kiện:13Để bảo đảm cho việc thành lập phản xạ có điều kiện được nhanh chóng và lâu bền, cần chú ý những điều kiện sau:– Phải lấy một phản xạ không điều kiện làm cơ sở. Trong trường hợp thành lập phản xạ có điều kiện cấp cao, thì phản xạ có điều kiện mới được xây dựng trên cơ sở một phản xạ có điều kiện đã có. – Phải có một số lần kết hợp nhất định giữa kích thích có điều kiện và không điều kiện [hoặc kích thích có điều kiện đã có]. Số lần kết hợp này nhiều hay ít là tuỳ theo từng trường hợp và tuỳ theo từng đứa trẻ.– Kích thích có điều kiện càng vô quan [nghĩa là không liên quan đến phản xạ không điều kiện hoặc có điều kiện được dùng làm cơ sở] thì càng dễ thành lập phản xạ có điều kiện. Như thế có nghĩa là, về phương diện sinh học, kích thích có điều kiện phải được chọn trong những kích thích yếu hơnkích thích không điều kiện [chủ yếu về cường độ sinh học].– Kích thích có điều kiện phải tác động trước hay đồng thời với kích thích không điều kiện. Nếu kích thích có điều kiện tác động trước thì vẫn có thể lập được phản xạ có điều kiện, nhưng không vững chắc và rất khó khăn vì bị ảnh hưởng âm tính từ trung khu hưng phấn do kích thích không điều kiện gây nên.– Cuối cùng, vỏ não của động vật thí nghiệm phải nguyên vẹn về mặt cấu tạo và khoẻ khoắn về mặt sinh lí, vì đường liên hệ tạm thời được “nối” lại trên vỏ não. Tuổi của vỏ não cũng có ảnh hưởng, trẻ càng nhỏ thì càng dễ thành lập phản xạ có điều kiện.2.2.3. Phân loại phản xạ có điều kiện:Có nhiều cách phân loại khác nhau. Xét về tính chất của kích thích có điều kiện, có thể phân loại thành những loại phản xạ có điều kiện cơ bản sau:– Phản xạ có điều kiện với những kích thích từ các thụ quan bên trong hoặc bên ngoài.– Phản xạ có điều kiện với kích thích thời gian.– Phản xạ có điều kiện nhiều cấp: Phản xạ có điều kiện cấp một là phản xạ có điều kiện được củng cố bằng phản xạ không điều kiện. Phản xạ có điều kiện cấp hai là phản xạ có điều kiện được củng cố bằng một phản xạ có điều kiện đã có. Một phản xạ có điều kiện được củng cố bằng một phản xạ có điều kiện cấp hai gọi là phản xạ có điều kiện cấp ba… Cứ như thế ta có được những phản xạ có điều kiện nhiều cấp.2.2.4. Ức chế phản xạ có điều kiện:Trong những tình huống khác nhau, phản xạ có điều kiện có thể bị chèn ép hay không xuất hiện. Đó là hiện tượng ức chế phản xạ có điều kiện. Có 2 nhóm: ức chế ngoài [ức chế không điều kiện] và ức chế trong [ức chế có điều kiện].– Ức chế ngoàiĐó là những ức chế mà nguyên nhân gây ra nó nằm ở ngoài vòng phản xạ bị ức chế và có liên hệ đến sự phát sinh hưng phấn trong một vòng phản xạ khác. ức chế ngoài còn gọi là ức chế không điều kiện. Có 2 loại ức chế không điều kiện:+ Ức chế ngoại lai: Nếu trong khi đang hình thành phản xạ có điều kiện mà xảy ra những kích thích bất ngờ, thì không những phản xạ có điều kiện mới sẽ không hình thành, mà cả phản xạ có điều kiện cũ cũng bị yếu đi hoặc mất hẳn: trong vỏ não đã phát sinh hiện tượng ức chế, do sự xuất hiện của một tiêu điểm hưng phấn mới [phản xạ định hướng]. Ví dụ, khi cháu bé đang khóc thì sự xuất hiện của một vật lạ có thể làm cháu ngừng khóc. Pavlov gọi loại ức chế này là ức chế ngoại lai.+ Ức chế vượt hạn: ức chế không điều kiện còn xuất hiện cả khi có sự tăng cường độ hoặc sự kéo dài thời gian kích thích của tác nhân có điều kiện. Trong trường hợp này, phản xạ có điều kiện sẽ yếu đi hoặc mất hẳn. Ví dụ, tiết học kéo dài thì kết quả những phút cuối rất hạn chế. Pavlov gọi loại ức chế này là ức chế vượt hạn [vượt giới hạn về cường độ và thời gian].– Ức chế trong ức chế trong là ức chế xảy ra do nguyên nhân nằm ngay trong vòng phản xạ bị ức chế, tức là có sự ngừng củng cố tác nhân kích thích có điều kiện bằng tác nhân 14kích thích không điều kiện. ức chế trong còn gọi là ức chế có điều kiện. Có nhiều loại ức chế có điều kiện: + Ức chế tắt: là loại ức chế do sự ngừng củng cố gây nên. Ví dụ, trẻ học thuộc bài rồi mà không củng cố thì sẽ quên dần đi. Ức chế tắt rất quan trọng: Các phản xạ có điều kiện đã thành lập trước đây, nay trở nên không thích hợp vì hoàn cảnh đã thay đổi, nhờ loại ức chế này sẽ không xảy ra nữa, và do đó cơ thể tiết kiệm được nhiều năng lượng, tránh được các động tác đã trở nên “lạc hậu” so với điều kiện sống mới.+ Ức chế chậm: Để thành lập đường liên hệ tạm thời, tác nhân kích thích có điều kiện phải tác động trước hay đồng thời với tác nhân kích thích không điều kiện. Tuỳ thời gian giữa hai kích thích đó mà phản xạ có điều kiện có thể xảy ra đồng thời với sự tác động của kích thích hay bị chậm trễ. Phản xạ sẽ xảy ra chậm khi mà khoảng cách thời gian giữa hai kích thích có và không điều kiện tương đối lớn. Sự thành lập phản xạ có điều kiện chậm là kết quả của sự phát triển ức chế trong. ở đây xảy ra quá trình phát triển giống như ức chế tắt. Sự củng cố tạo nên hưng phấn, hưng phấn này dần dần làm mất ức chế, phản xạ có điều kiện lại xảy ra. Những phản xạ trì hoãn có điều kiện được luyện tập và hoàn thiện theo lứa tuổi và có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành hành vi chính xác, phù hợp với các điều kiện sống. + Ức chế phân biệt: Mỗi kích thích bên ngoài dùng để thành lập phản xạ có điều kiện lúc đầu đều mang tính chất khái quát. Đặc tính của vỏ não có khả năng khái quát những kích thích có điều kiện giống nhau gọi là tính phổ cập hay lan rộng. Như thế, giai đoạn đầu tiên trong việc thành lập phản xạ có điều kiện là giai đoạn khái quát, phổ cập. Sau này, nếu kích thích có điều kiện cơ sở được thường xuyên củng cố, còn kích thích gần giống nó không được củng cố, thì kích thích này mất dần tác dụng như là một kích thích có điều kiện. ức chế làm cho phản xạ không xảy ra với kích thích không được củng cố gọi là ức chế phân biệt [nghĩa là giúp cơ thể “phân biệt” kích thích được củng cố với kích thích không được củng cố]. Việc hình thành sự phân biệt tinh vi ở trẻ em xảy ra dần dần. Để hình thành sự phân biệt tinh vi thì lúc đầu phải hình thành sự phân biệt đơn giản và dễ dàng hơn. Nếu không chuyển dần dần từ các nhiệm vụ dễ dàng sang các nhiệm vụ khó thì hoạt động TKCC của trẻ có thể bị rối loạn.B. Thông tin bổ trợTài liệu [2] từ trang 57 đến 63.Tài liệu [3] từ trang 118 đến 128.Nhiệm vụNhiệm vụ 1: Đọc kĩ các thông tin trên.Nhiệm vụ 2: Thảo luận nhóm: Thế nào là hoạt động TKCC? Mỗi nhóm cử đại diện phát biểu.Nhiệm vụ 3: Lập bảng so sánh những đặc điểm khác nhau giữa phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện theo mẫu sau:Những đặc điểm của phản xạ không điều kiệnNhững đặc điểm của phản xạ có điều kiện1. .............................................2. ..............................................3. ..............................................4. ..............................................5. ..............................................6. ..............................................1. .............................................2. ..............................................3. ..............................................4. ..............................................5. ..............................................6. ..............................................Nhiệm vụ 4: Hãy vẽ nốt sơ đồ thành lập phản xạ có điều kiện dưới đây15[H.5] và nêu các điều kiện để hình thành tốt phản xạ có điều kiện.Hình 5. Sơ đồ thành lập phản xạ có điều kiệnNhiệm vụ 5: Phân loại các ức chế phản xạ có điều kiện.Đánh giáHãy giải thích câu nói của Wells: “Phát minh vô cùng vĩ đại mà I.P. Pavlovđã thực hiện được là tìm thấy ở phản xạ có điều kiện chiếc chìa khoá đểhiểu được các hiện tượng tâm lí”.Hoạt động 3. Nêu và giải thích các quy luật cơ bản của hoạtđộng Thần kinh cấp caoThông tinA. Thông tin cơ bản3.1. Các quy luật cơ bản trong hoạt động thần kinh cấp caoToàn bộ hoạt động TKCC được xây dựng trên cơ sở sự hoạt động của hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế. Chúng hoạt động như thế nào, phối hợp và chuyển hoá lẫn nhau ra sao, theo những quy luật nào?3.1.1. Quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức chếPavlov đã nêu nội dung của quy luật này như sau: “Bất cứ một kích thích nào kéo dài ít nhiều, khi đã chạm đến một điểm nhất định của bán cầu đại não, dù cho ý nghĩa sinh tồn của nó to lớn đến đâu đi nữa, và tất nhiên là nếu nó chẳng có hậu quả gì đối với đời sống, nếu kích thích ấy không đi đôi với những kích thích đồng thời của những điểm khác, thì nhất định sớm hay muộn nó sẽ dẫn đến trạng thái buồn ngủ và đến giấc ngủ”. Trong cuộc sống hằng ngày, quy luật này được thể hiện rất rõ ràng: Học sinh sẽ buồn ngủ khi thầy giảng bài đều đều, buồn tẻ; Tiếng ru nhè nhẹ, kéo dài của bà mẹ sẽ làm cho em bé đi dần vào giấc ngủ. Quy luật này có ý nghĩa bảo vệ rất lớn đối với các tổ chức thần kinh ở vỏ não, và đối với toàn bộ cơ thể. Quá trình chuyển từ hưng phấn sang ức chế có thể diễn ra một cách nhanh chóng, đột ngột. Ví dụ, có những cháu bé vừa mới rồi còn cười đùa, mà ngay sau đó đã lăn ra ngủ. Nhưng nó cũng có thể diễn ra một cách dần dần, qua một số giai đoạn [pha] quá độ. Đó là những giai đoạn “san bằng”, “trái ngược” hay “cực kì trái ngược”. ở pha [giai đoạn] “san bằng” thì các kích thích mạnh hay yếu đều gây ra phản ứng như nhau; ở pha “trái ngược” thì kích thích mạnh lại gây phản ứng yếu và kích thích yếu lại gây phản ứng mạnh; còn ở pha “cực kì trái ngược” thì kích thích âm tính trở thành dương tính, kích thích dương tính lại trở thành âm tính. 3.1.2. Quy luật tương quan giữa cường độ kích thích và cường độ phản xạNội dung quy luật: Trong một phản xạ có điều kiện, kích thích có cường độ càng mạnh thì cường độ phản xạ cũng càng lớn. Nói cách khác, cường độ phản xạ có điều kiện tỉ lệ thuận với cường độ của kích thích. Quy luật này chỉ mang tính chất tương đối, nghĩa là không đúng trong mọi trường hợp. Nếu kích thích quá yếu [dưới ngưỡng] hoặc quá mạnh [trên ngưỡng] thì khi cường độ kích thích càng tăng, cường độ phản xạ sẽ càng giảm, vì xuất hiện ức chế vượt hạn.3.1.3. Quy luật lan toả và tập trungCác quá trình hưng phấn và ức chế xuất hiện trên vỏ não không dừng lại ở điểm chúng sinh ra, mà lan rộng ra mọi hướng trên vỏ não [sự lan toả hay khuếch tán]. Mức độ lan toả phụ thuộc vào hưng tính của các tiêu điểm trên vỏ não và vào cường độ của kích thích tác động. Sau khi đã lan rộng ra xung quanh, chúng lại thu hẹp dần phạm vi hoạt động, cuối cùng rút về vị trí xuất phát – đó là hiện tượng tập trung. Sự lan toả và tập trung của hưng phấn và ức chế trên vỏ não là một hiện tượng mang tính quy luật. Ví dụ, quá trình từ buồn ngủ, ngáp, “díp mắt”, ngủ gà ngủ gật, rồi ngủ say thật sự chính là quá trình lan toả của ức chế từ một điểm ban đầu nào đó trên vỏ não ra toàn bộ vỏ não. Và quá trình ngược lại, từ ngủ đến thức dậy, là quá trình tập trung của ức chế sau khi đã lan rộng khắp _vỏ não.3.1.4. Quy luật cảm ứng qua lạiCảm ứng là khả năng gây ra quá trình đối lập ở xung quanh mình [không gian] hoặc tiếp sau mình [thời gian] của các quá trình thần kinh cơ bản [hưng phấn và ức chế]. Ví dụ, mải học bài mà không nghe thấy người khác gọi – đó là cảm ứng theo không gian, hay cảm ứng đồng thời. 16Nhắm mắt lại vài phút rồi mở mắt ra, ta sẽ thấy các sự vật rõ hơn đó là cảm ứng theo thời gian hay cảm ứng nối tiếp. Có 2 loại cảm ứng: dương tính và âm tính. Cảm ứng dương tính là loại cảm ứng xuất hiện do quá trình ức chế gây nên, còn cảm ứng âm tính là loại cảmứng xuất hiện do quá trình hưng phấn gây nên. Sự phát triển của hiện tượng cảm ứng càng làm tăng tính tinh vi và chính xác trong việc thành lập trên vỏ não những điểm kích thích dương tính hoặc âm tính bảo đảm cho mối liên hệ chính xác nhất giữa cơ thể với môi trường luôn luôn biến đổi. Cảm ứng âm tính là cơ chế bên trong của sự hình thành ức chế ngoại lai.3.1.5. Quy luật hoạt động có hệ thống của vỏ nãoTrong điều kiện tự nhiên của đời sống, các kích thích không tồn tại riêng rẽ. Thường chúng tạo thành một tổ hợp kích thích đồng thời hoặc nối tiếp. Mỗi một sự vật là một tổ hợp đồng thời của nhiều kích thích: thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác. Rõ ràng là, để thích nghi một cách hoàn thiện với môi trường, não bộ cần phải hình thành khả năng phản ứng lại toàn bộ những hệ thống kích thích, trong khi phân biệt một cách chính xác hệ thống này với hệ thống khác. Cùng với điều đó, phản ứng của cơ thể được thích ứng với những điều kiện của môi trường bên ngoài cũng không diễn ra một cách riêng lẻ. Bất cứ một hoạt động nào của con người và con vật đều là những tổ hợp hay hệ thống hoạt động của nhiều phản ứng. Hoạt động tổng hợp của vỏ não cho phép hợp nhất những kích thích riêng lẻ hay những phản ứng riêng lẻ thành một tổ hợp hoàn chỉnh, hay thành các hệ thống, gọi là tính hoạt động có hệ thống của vỏ não. Một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của quy luật này là sự hình thành các“định hình động lực” [mà ta quen gọi là “động hình”]. Đó là một hệ thống các phản xạ có điều kiện được lặp đi lặp lại theo một trình tự nhất định và theo một khoảng cách thời gian xác định trong một thời gian dài, mà sau đó chỉ cần một phản xạ đầu xảy ra, thì toàn bộ các phản xạ tiếp theo sẽ xảy ra theo “dây chuyền”, nghĩa là một kích thích có thể đại diện cho toàn bộ các kích thích khác để gây phản xạ.Định hình động lực là cơ sở của những hành động tự động hóa mà ta gọi là kĩ xảo và thói quen. 3.2. Hệ thống tín hiệu thứ haiMột kích thích nào đó đại diện cho một kích thích khác để gây ra một phản ứng nào đó của cơ thể thì được gọi là tín hiệu của vật kích thích ấy. Ví dụ, trong thí nghiệm thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với ánh đèn của con chó, ánh đèn đại diện cho thức ăn, là tín hiệu của thức ăn. Có 2 loại tín hiệu: tín hiệu cụ thể [tín hiệu thứ nhất] là những sự vật, hiện tượng cụ thể, trực tiếp như ánh sáng, nhiệt độ, màu sắc… và tín hiệu ngôn ngữ [tín hiệu thứ hai] là những vật kích thích có tính chất khái quát, gián tiếp – đó là lời nói và chữ viết. Hệ thống những đường liên hệ thần kinh tạm thời được hình thành trên vỏ não do sự tác động của những tín hiệu thứ nhất, cùng với các tín hiệu đó được gọi là hệ thống tín hiệu thứ nhất.Hệ thống những đường liên hệ thần kinh tạm thời được hình thành trên vỏ não do sự tác động của các tín hiệu thứ hai, cùng với các tín hiệu đó được gọi là hệ thống tín hiệu thứ hai hay ngôn ngữ.3.2.1. Bản chất và đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ hai– Ngôn ngữ là vật kích thích có điều kiện như mọi vật kích thích có điều kiện khác, nghĩa là ta có thể dùng ngôn ngữ để thành lập phản xạ có điều kiện ở cả con người lẫn con vật. Chẳng hạn, chỉ cần nói “chanh” là ta đủ chảy nước miếng rồi! Chỉ cần nói “họ” hay “vắt” là con trâu đứng lại hoặc rẽ ngang!– Tuy nhiên, ngôn ngữ là một vật kích thích có điều kiện đặc biệt, chỉ có ởcon người. Đây là điều rất quan trọng, vì tuy cũng có phản ứng với ngôn ngữ, nhưng con người phản ứng khác với con vật. Nhiều người lầm tưởng con vật “hiểu” được tiếng người. Sự thật không phải vậy, đối với con vật, ngôn ngữ chỉ là một âm thanh hay hình ảnh cụ thể như mọi hình ảnh hayâm thanh khác mà thôi, không hơn không kém. Con vật chỉ phản ứng lại với ngôn ngữ theo những tính chất vật lí của nó [cường độ âm thanh, âm sắc, âm điệu] kết hợp với điệu bộ của con người, chứ không thể phản ứng với nội dung, khái niệm chứa trong ngôn ngữ. Nếu ta nói một cách mơn trớn, dịu dàng: “Xéo ngay đi!” thì con chó sẽ mừng rỡ chạy lại.Trái lại, con người phản ứng chủ yếu với nội dung, khái niệm chứa trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, nếu thành 17lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với từ “chanh” ở một em học sinh lớp 2 và ở một con vật, thì sau đó khi nghe thấy từ “chua”, con vật chỉ có phản xạ định hướng quay về phía có tiếng nói, còn em học sinh vẫn tiết nước bọt như lúc nghe thấy từ “chanh”!– Ngôn ngữ là tín hiệu của tín hiệu: trong phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với ánh đèn ở con chó, chẳng hạn, thì ánh đèn [vật cụ thể] đại diện cho thức ăn [vật cụ thể]. Pavlov gọi đó là “tín hiệu của sự vật”, hay “tín hiệu loạt 1”. Còn ở con người tiếng “đèn” đại diện cho ánh đèn thực, và ánh đèn thực lại đại diện cho thức ăn. Do đó, Pavlov gọi ngôn ngữ là “tín hiệu của tín hiệu” hay “tín hiệu loạt 2”.So với hệ thống tín hiệu thứ nhất, hệ thống tín hiệu thứ hai có đặc điểm nổi bật là nó có khả năng trừu tượng hoá và khái quát hoá các sự vật, hiện tượng. Từ ngữ không chỉ làm vật đại diện, làm tín hiệu cho một sự vật, hiện tượng mà còn có thể thay thế cho cả một loạt sự vật, hiện tượng tương tự, hoặc liên quan mật thiết với nhau. Vì vậy, hệ thống tín hiệu thứ hai là cơ sở sinh lí của tư duy con người.3.2.2. Mối quan hệ giữa hai hệ thống tín hiệu một và haiở con người, hai hệ thống tín hiệu một và hai có liên quan chặt chẽ với nhau, chúng thường xuyên tác động qua lại với nhau, trong đó, hệ thống tín hiệu thứ hai chiếm ưu thế. Hệ thống tín hiệu thứ hai được xây dựng trên cơ sở hệ thống tín hiệu thứ nhất và nó có ảnh hưởng trở lại với hệ thống tín hiệu thứ nhất.Sự nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan chỉ có thể có được khi có sự tác động qua lại chặt chẽ giữa hai hệ thống tín hiệu. Vì vậy, trong việc giáo dục các cháu học sinh nhỏ rất cần kết hợp các bài giảng bằng lời với các biểu tượng trực quan.3.3. Đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao ở học sinh tiểu họcTừ 6 tuổi trở đi, trẻ bắt đầu sử dụng các khái niệm được trừu xuất khỏi hành động. ở tuổi này, trẻ bắt đầu học viết và học đọc được.Sang 7 tuổi, thùy trán của não bộ đã trưởng thành về hình thái, và trong thời kì này xuất hiện khả năng duy trì chương trình hành động gồm một vài động tác và khả năng dự kiến trước được kết quả của hành động. ở trẻ 7 – 9 tuổi, các phản xạ có điều kiện dương tính được hình thành nhanhhơn. ở một số trẻ, những phản xạ đó trở thành bền vững ngay từ lúc xuất hiện. Phản xạ với phức hợp các kích thích tác động nối tiếp được hình thành dễ dàng và ngay lập tức với toàn bộ phức hợp. Thời gian tiềm tàng của phản xạ được rút ngắn rõ rệt so với tuổi mẫu giáo. Đặc điểm nổi bật của lứa tuổi này là các phản xạ có điều kiện dương tính và âm tính đều được củng cố nhanh chóng; các phản xạ đó có độ ổn định cao đối với những tác động bên ngoài, các quá trình thần kinh được tập trung nhanh hơn. ở trẻ 10 – 12 tuổi, các phản xạ có điều kiện dương tính đối với những kích thích đơn giản hay phức tạp đều xuất hiện nhanh, thường trở thành bền vững ngay lập tức. Những cử động thừa và không phù hợp nào đó của phản ứng đều bị mất đi. Các phản xạ có điều kiện có độ bền vững cao đối với các kích thích bên ngoài. Bắt đầu dễ dàng làm lại các phản xạ có điều kiện. ảnh hưởng cảm ứng khá mạnh và sự mất đi nhanh chóng của các hậu quả của các tác nhân gây ức chế chứng tỏ các quá trình thần kinh có khả năng tập trung nhanh.3.4. Các kiểu hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ emTrên cơ sở số 3 thuộc tính cơ bản của các quá trình thần kinh [cường độ, tính cân bằng, tính linh hoạt], Pavlov đã chia các kiểu hoạt động TKCC chung cho cả người và động vật làm 4 kiểu sau:– Kiểu mạnh, cân bằng, linh hoạt: Hưng phấn và ức chế đều mạnh, hai quá trình này cân bằng nhau và chuyển hoá lẫn nhau một cách linh hoạt.– Kiểu mạnh, cân bằng, không linh hoạt: Cường độ của hưng phấn và ứcchế đều mạnh, hai quá trình hưng phấn và ức chế cân bằng nhau, nhưng sự chuyển hoá giữa chúng không linh hoạt.– Kiểu mạnh, không cân bằng: Các quá trình hưng phấn và ức chế đều mạnh, nhưng không cân bằng, hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt so với ức chế.18

Video liên quan

Chủ Đề