Tại sao bảo vệ To quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan

Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về vũ trang quần chúng để bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp vô sản, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (năm 1917), V.I. Lê-nin đã xây dựng nên học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tại sao bảo vệ To quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan

Ảnh tư liệu

Trong học thuyết đó, Người chỉ rõ nhiều vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc đối với công cuộc bảo vệ tổ quốc trong điều kiện đảng cộng sản cầm quyền, như tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa; xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa;... Trước Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lê-nin đã chuẩn bị những tiền đề lý luận về vấn đề bảo vệ thành quả của cách mạng vô sản, trong đó khẳng định, sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản và nhân dân lao động phải luôn củng cố, tăng cường sức mạnh vũ trang để bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên thực tế rằng họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để bảo vệ lấy mình”(1). Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, nhiều nước đế quốc câu kết với các thế lực tư sản, phản động trong nước thực hiện âm mưu can thiệp, gây chiến tranh xâm lược hòng thủ tiêu thành quả cách mạng, xóa bỏ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần kíp và tất yếu khách quan đối với Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô-viết: phải sẵn sàng chuẩn bị về mọi mặt để đánh bại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền Xô-viết non trẻ và chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I. Lê-nin đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”(2). Người khẳng định: “Kể từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc, bảo vệ nước Cộng hòa xô-viết với tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”(3). Trong thời kỳ nội chiến (1918 - 1920), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga và Hội đồng Dân ủy do V.I. Lê-nin đứng đầu đã có nhiều biện pháp tăng cường xây dựng, củng cố nền quốc phòng đất nước để chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài. Chỉ tính từ ngày 01-12-1918 đến ngày 27-02-1920, V.I. Lê-nin đã trực tiếp chủ trì gần 100 cuộc họp của Hội đồng Quốc phòng để thảo luận và quyết nghị những vấn đề chiến lược về bảo vệ Tổ quốc. Người còn gửi gần 600 thư và điện cho các đơn vị quân đội để chỉ đạo các tình huống chiến dịch - chiến lược nhằm bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về phương thức chiến lược bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin luôn coi trọng kết hợp chặt chẽ những vấn đề chiến lược về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, dựa chắc trên cơ sở xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga, V.I. Lê-nin đã trực tiếp chỉ đạo Hội đồng Quốc phòng và Hội đồng Dân ủy phát huy vai trò quan trọng trong củng cố chính quyền Xô-viết, động viên các nguồn lực cho mặt trận và xây dựng Hồng quân, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề cơ bản, cấp thiết đặt ra nhằm ổn định đời sống nhân dân. Chính quyền Xô-viết cũng tiến hành nhiều biện pháp kiên quyết trấn áp các lực lượng phản động, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, tạo cơ sở cho nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng quân đội cách mạng, V.I. Lê-nin rất coi trọng xây dựng bản chất cách mạng, bản chất giai cấp vô sản của quân đội. Người nhấn mạnh phải thường xuyên chăm lo xây dựng Hồng quân như “con ngươi trong mắt mình”, thực sự là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dưới sự chủ trì của V.I. Lê-nin, Đại hội các Xô-viết toàn Nga (tháng 6-1918) đã thông qua nghị quyết quan trọng về xây dựng Hồng quân công nông, trong đó có vấn đề thiết lập chế độ chính ủy trong Hồng quân. Vận dụng và phát triển quan điểm của Ph. Ăng-ghen về mối quan hệ phụ thuộc của chiến tranh vào những điều kiện kinh tế, V.I. Lê-nin đã đặt nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhiệm vụ xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và xác định hai nhiệm vụ đó phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Theo Người, phương thức tiến hành, diễn biến và kết cục chiến tranh bảo vệ tổ quốc phụ thuộc vào cả chế độ xã hội chủ nghĩa; nếu không bảo vệ được nước Nga Xô-viết, thì chẳng những đất nước sẽ trở thành thuộc địa của các nước đế quốc mà chế độ xã hội chủ nghĩa cũng sẽ bị kẻ thù tiêu diệt. V.I. Lê-nin viết: “Nhưng chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà... Cuộc chiến tranh cách mạng này cần phải được chuẩn bị lâu dài, nghiêm túc, bắt đầu từ kinh tế”(4). Trong học thuyết bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin đặc biệt coi trọng việc phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt và những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, coi đó là cơ sở trực tiếp quyết định việc nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lê-nin, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo vệ tổ quốc là sứ mệnh của nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời là nghĩa vụ của toàn dân; vì vậy, mỗi người phải đem hết sức mình đóng góp cho công cuộc khôi phục và tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước. V.I. Lê-nin đã cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chính quyền Xô-viết thực hiện các biện pháp động viên, quy tụ, phát huy sức mạnh tổng hợp của Nhà nước và của toàn dân trong công cuộc củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, với nhiều hình thức phong phú, hiệu quả, như “Tuần lễ Đảng”, “Ngày thứ bảy cộng sản”, “Ngày sĩ quan đỏ”,...; qua đó, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo V.I. Lê-nin, trong điều kiện đảng cộng sản đã nắm được quyền lãnh đạo xã hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, với mục tiêu bảo vệ bao gồm: bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; bảo vệ sự ổn định và phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo vệ môi trường hòa bình và hạnh phúc của nhân dân. Đối với vấn đề xây dựng quân đội công nông thường trực, chính quy của giai cấp vô sản và nhân dân lao động theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học, V.I. Lê-nin đã vận dụng và phát triển sáng tạo vào xây dựng Hồng quân Xô-viết, trong điều kiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới được thành lập, tiềm lực quân sự còn thua kém xa các nước đế quốc chủ nghĩa. Người khẳng định: “Muốn bảo vệ chính quyền của công nông... chúng ta phải có Hồng quân mạnh mẽ... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”(5). Ngày 15-1-1918, Hội đồng Dân ủy do V.I. Lê-nin đứng đầu đã thông qua Sắc lệnh thành lập Hồng quân và Hải quân công nông - một quân đội chính quy kiểu mới đầu tiên của giai cấp vô sản trên thế giới, là công cụ đặc biệt quan trọng để bảo vệ những thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa, thành trì giữ gìn hòa bình và an ninh của nhân dân Xô-viết. V.I. Lê-nin khẳng định một nguyên lý trong xây dựng Hồng quân: “Chúng ta có một bộ máy quân sự to lớn. Không có các chính ủy chúng ta sẽ không có Hồng quân”(6). Người chính ủy làm người đại diện cho Đảng Bôn-sê-vích và Nhà nước Xô-viết, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo chính trị của Đảng ở các đơn vị; tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Đồng thời, người chính ủy có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức để bổ sung cho quân đội cách mạng. Theo đó, hệ thống tổ chức đảng, cơ quan chính trị, chế độ chính ủy được thiết lập và thực hiện thống nhất trong toàn quân. Trong năm 1918, hơn 3.200 đảng viên được điều vào quân đội giữ chức chính ủy; đến tháng 8-1920, trong quân đội có 30 vạn đảng viên, bằng 50% tổng số đảng viên Đảng Cộng sản (b) Nga lúc đó. Đây là nhân tố quan trọng quyết định việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, bảo đảm cho quân đội chấp hành nghiêm nhiệm vụ chính trị, quân sự của Đảng, làm tròn chức năng nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. V.I. Lê-nin rất chú trọng phát huy vai trò to lớn của Nhà nước đối với việc ưu tiên nghiên cứu khoa học quân sự, phát triển công nghiệp quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đầu tư vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật ngày càng hiện đại cho quân đội, để nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm nòng cốt xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang Xô-viết. Người khẳng định: Nếu “không có khoa học thì không thể xây dựng được một quân đội hiện đại”(7). Người còn nêu một luận điểm rất quan trọng: Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ. Trong hòa bình, tuy nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế đất nước là trung tâm, nhưng, theo V.I. Lê-nin, vẫn luôn “phải giữ cho Hồng quân của chúng ta trong thế sẵn sàng chiến đấu và tăng cường năng lực chiến đấu”(8). Thực hiện quan điểm bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lê-nin, Hội đồng Quốc phòng và Hội đồng Dân ủy đã tập trung các biện pháp phát triển nhanh chóng lực lượng Hồng quân, từ chỗ chỉ có khoảng 30 vạn người lúc mới thành lập, đến cuối năm 1918 đã nâng lên hơn một triệu người với các binh chủng: Bộ binh, Kỵ binh, Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân. Đồng thời, hệ thống các trường quân sự cũng được phát triển mạnh mẽ; đã đào tạo, bồi dưỡng được hàng nghìn cán bộ quân đội, trong đó nhiều người trở thành cán bộ lãnh đạo, chỉ huy xuất sắc về quân sự và chính trị của các lực lượng vũ trang Xô-viết, đóng góp quan trọng vào chiến thắng vĩ đại của quân đội và nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần to lớn cứu nhân dân nhiều nước thoát khỏi họa diệt chủng của chủ nghĩa phát-xít. Sau những sự kiện chính trị xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trong thập niên 90 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã và còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thử thách. Nhân cơ hội đó, các thế lực phản động quốc tế câu kết chặt chẽ với những phần tử cơ hội chính trị ở một số quốc gia tìm mọi âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt hòng xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong đó có học thuyết của V.I. Lê-nin về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Song, toàn bộ thực tiễn chống phá quyết liệt Đảng Cộng sản, Nhà nước và các lực lượng vũ trang Liên Xô của các thế lực thù địch, cùng hiện thực phát triển sinh động, phong phú và sâu sắc của chủ nghĩa xã hội ở các nước Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba,... trong mấy thập niên vừa qua càng làm nổi bật và khẳng định giá trị trường tồn của học thuyết V.I. Lê-nin về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trở thành nguyên tắc chiến lược liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến hết sức phức tạp với những biến động bất trắc, khó lường, tiềm ẩn cả những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ, tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 25 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tạo thuận lợi căn bản cho việc tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Bên cạnh đó, những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên và lợi ích liên quan giữa các quốc gia, dân tộc vẫn diễn biến khá gay gắt, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ, nhất là khi các nước lớn có sự mặc cả và thỏa hiệp với nhau, gây phương hại đến chủ quyền và lợi ích của dân tộc ta. Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, đủ sức đập tan tất cả các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để tập trung phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trên cơ sở đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng đúng đắn và phát triển một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến, những vấn đề có tính nguyên tắc trong học thuyết của V.I. Lê-nin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào điều kiện cụ thể của đất nước, chúng ta cần phải tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được thể hiện rõ trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Thực hiện đổi mới tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, chúng ta cần phải quan tâm, chăm lo hơn nữa trong xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước, như tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực khoa học và tiềm lực quân sự, nhằm tạo nên sức mạnh toàn diện, to lớn của đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp phát triển, bảo vệ và giữ vững môi trường hòa bình, không để xảy ra chiến tranh - đó là thượng sách để giữ nước. Quá trình xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là quá trình tạo ra và nhân lên sức mạnh to lớn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, và đó là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội cũng đồng thời tạo thêm sức mạnh mới cho quá trình bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang, mà là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa với sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác là nhân tố quyết định. Sức mạnh đó được tạo ra trên cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn chặt chẽ với xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời bình; cùng với việc tập trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Đó là những yếu tố bảo đảm cho chúng ta đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. ------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 38, tr. 165 – 166 (2) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 37, tr. 145 (3) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 36, tr. 102 (4) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 35, tr. 480 – 481 (5) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 39, tr. 175 - 176 (6) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 41, tr. 179 (7) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 40, tr. 210

(8) V.I. Lê-nin: Sđd, t. 42, tr. 159


 

Đại tá, ThS, Nguyễn Đức Thắng - Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng