Tiểu luận môn mỹ thuật tiểu học

21
375 KB
6
310

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 21 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

MỤC LỤC Tr Phần mở đầu ……………………………………..3 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Lý do chọn đề tài………………………………………3 Mục đích nghiên cứu…………………………………..3 Đối tượng nghiên cứu………………………………….3 Phạm vi nghiên cứu……………………………………3 Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………….4 Phương pháp nghiên cứu………………………………4 Đóng góp của đề tài……………………………………4 Bố cục của đề tài………………………………………4 Phần nội dung................................................................5 Chương 1: Các trường phái hội họa phương Tây……..5 1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa…………………....5 1.1.1 Trường phái hội họa là gì?...................................5 1.1.2 Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa?............5 1.1.3 Các trường phái hội họa phương Tây…………..5 1.1.4 1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu………6 1.2.1 Trường phái hội họa Ấn tượng………………….6 1.2.2 Trường phái hội họa Dã thú……………………7 1.2.3 Trường phái hội họa Lập thể……………………7 1.2.4 Trường phái hội họa Trừu tượng………………..8 1.2.5 Trường phái hội họa Siêu thực……………… …9 Chương 2:Những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây. …………………………………………………10 2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây…………………10 2.1.1 Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền thống tả thực…………………………………………………..10 2.1.2 Màu sắc trong hôi họa Ấn tượng………………12 2.1.3 Màu sắc trong hội họa Dã thú…………………14 2.1.4 Màu sắc trong hội họa Siêu thực........................15 2.1.5 Màu sắc trong hội họa Trừu tượng…………….16 2.2 Quan niệm sáng tác………………………………..16 2.2.1 Quan niệm của các họa sĩ Ấn Tượng…………17 2.2.2 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Dã thú……18 2.2.3 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Siêu thực...19 2.2.4 Quan niệm sáng tác của các họa sĩ Trừu tượng19 Phần kết luận………………………………….20 Tài liệu tham khảo…………………………….21 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng được tìm tòi khám phá. Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình như đường, nét, hình mảng để làm phương tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể, không có tác giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng biểu hiện của ánh sáng bóng tối, không gian, thời gian, vật chất... tất cả đều liên quan đến sức biểu hiện của màu sắc. Đó cũng được coi là quan niệm sáng tác của các Họa sĩ, trong mỗi hoàn cảnh và môi trường khác nhau mà những quan niệm sáng tác có thể thay đổi. Chính những tư tưởng đổi mới trong sáng tác nghệ thuật mà các trường phái hội họa đc ra đời. Mỗi trường phái đại diện cho quan niệm sáng tác và cách sử dụng màu riêng. Tất cả đã góp phần tạo nên một thế giới hội họa đa màu sắc, muôn màu muôn vẻ. Xuất phát từ nhận thức trên cùng với những đóng góp vô cùng lớn lao mà hội họa đã mang đến cuộc sống con người đã thôi thúc em lựa chọn đề tài : “ Màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm ra những đặc điểm tiêu biểu trong việc sử dụng màu sắc cũng như quan niệm sáng tác của các họa sĩ ở một số trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu. Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của màu sắc và quan niệm sáng tác trong hội họa. 3. Đối tượng nghiên cứu Màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây. 4. Phạm vi nghiên cứu Việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác tranh của các họa sĩ thuộc 1 số trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu. Một số tranh thuộc các trường phái khác nhau. 5. Nhiệm vụ của nghiên cứu Làm rõ mối quan hệ của việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của các họa sĩ trong hội họa. Sự độc đáo của màu sắc và lối tư duy trong quan niệm sáng tác của các họa sĩ trong hội họa. 6. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này em dùng phương pháp nghiên cứu lý thuyết nhìn từ góc độ mỹ thuật học và phương pháp tiếp cận lịch sử để nghiên cứu tài liệu. Ngoài ra em còn sử sụng các tài liệu trong các công trình khoa học nghiên cứu về màu sắc, về các trường phái hội họa phương Tây đã được công bố. 7. Đóng góp của đề tài Đây là đề tài mang tính chất tổng quát và hệ thống hóa những thủ pháp sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của các họa sĩ thuộc 1 số trường phái hội họa. Từ cách phân tích, khái quát rồi đánh giá em hi vọng đưa ra một số nhận xét có cơ sở về những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây. Từ cách tiếp cận này, đề tài hi vọng có một đóng góp nhỏ trong cách phân tích các tác phẩm hội họa. Đó là cách nhìn bao quát , toàn diện trong mối liên hệ giữa lịch sử, quan điểm sáng tác , quan điểm thẩm mỹ để hiểu và phân tích tác phẩm sâu hơn. 8. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài có nội dung chính gồm: Chương 1: Các trường phái hội họa phương Tây. 1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa. 1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu. Chương 2: Những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây. 2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây 2.2 Quan điểm sáng tác. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 : CÁC TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƯƠNG TÂY 1.1 Tìm hiểu về trường phái hội họa 1.1.1 Trường phái hội họa là gì? Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật [nghệ] và phương pháp [thuật] của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật và phương pháp thể hiện. 1.1.2 Cótất cả bao nhiêu trường phái hội họa? Các trường phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trường phái xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính đại chúng – được nhiều người biết đến hay không mà thôi. 1.1.3 Các trường phái hội họa phương Tây Nhắc đến các trường phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật ngữ : “Trừu tượng” “Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là các trường phái lớn [bắt nguồn từ Châu Âu] có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới. * Ấn tượng * Baroc * Cấu trúc * Chấm họa * Dã thú * Graffiti * Hard-edge * Hậu ấn tượng * Hậu hiện đại * Hiện đại * Hiện thực * Hiện thực lãng mạn * Hiện thực xã hội * Lãng mạn * Lập thể * Mannerism * Ngây thơ * Pop-Art * Siêu thực * Tân cổ điển * Thị giác [Op-Art] * Trừu tượng … Như đã nêu, các trường phái trên là những trường phái nổi bật nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trường phái mỹ thuật trên thế giới. Các trường phái hội họa phương Tây đều có tính lịch sử, một trường phái ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước đó và đến lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển. 1.2 Các trường phái hội họa phương Tây tiêu biểu. 1.2.1 Trường phái Ấn tượng Ấn tượng [tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism] là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris [Pháp] vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant [Ấn tượng mặt trời mọc]. Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát. Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne [sau này đã rời bỏ phong trào], Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet [tuy nhiên Manet không xem mình thuộc phong trào], Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley 1.2.2 Trường phái dã thú Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt. Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình. Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy…. 1.2.3 Trường phái lập thể Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, [Cubism] là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu. Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện. Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba… 1.2.4 Trường phái trừu tượng Nghệ thuật Trừu tượng là trào lưu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm 1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tượng không thể hiện đối tượng một cách hiện thực như mắt nhìn thấy mà biểu thị những ý nghĩ, cảm xúc của nghệ sĩ về một vài nét nào đó của đối tượng. Trong nghệ thuật tạo hình, trừu tượng là sự phát huy yếu tố biểu đạt của đường nét, hình khối, màu sắc để thể hiện ý tưởng hay cảm xúc. Trừu tượng cũng tồn lại nhiều dạng: trừu tượng hình học, trừu tượng sáng tạo, trừu tượng biểu hiện... Hội họa trừu tượng giống như sự kết hợp của Lập thể và Dã thú, lập thể về hình khối và dã thú về màu sắc. Trừu tượng có thể xem như hệ quả tất yếu của Lập thể. Khi trường phái Lập thể đi đến thoái trào, nhiều họa sĩ Lập thể chuyển sang vẽ trừu tượng. Trong đó hai họa sĩ chuyển hướng đầu tiên là Robert Delaunay và Frank Kupka. Nghệ thuật Trừu tượng xuất hiện ban đầu ở nhiều quốc gia châu Âu như Pháp, Đức, Hà Lan, Nga. Về sai nó trở thành một trào lưu quốc tế và đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ 20. 1.2.5 Trường phái siêu thực Dựa trên những học thuyết: Phân tâm, Trực giác và Nhận thức, chủ nghĩa siêu thực đã ra đời với một quan niệm có một thế giới ở trên ta, một thế giới cần phải khám phá. Họ cho rằng thế giới mà ta đang sống nằm trong tầng bao quát của lý tính, còn thế giới siêu thực vượt ra ngoài tầm bao quát đó. Những nghệ sỹ tiêu biểu của trường phái này gồm: Sanvado Dali, Max Ernst, Magritte, Chagall... với những tác phẩm : “Sự bền lâu của ký ức” [1931], “Thế giới vô hình” [1954], “Nỗi sầu và vẻ bí mật của đường phố” [1914]... Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới. CHƯƠNG 2: NHỮNG NÉT NỔI TRỘI TRONG VIỆC SỬ DỤNG MÀU SẮC VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƯƠNG TÂY. 2.1 Màu sắc trong hội họa phương Tây 2.1.1 Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền thống tả thực. Trong suốt hơn một nghìn năm chìm trong đêm trường Trung cổ [khoảng năm 350 cho tới năm 1453], toàn bộ châu Âu như bị bao trùm bởi một bóng đen kìm hãm sự phát triển về nhiều mặt, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ hoàn toàn phục vụ Nhà thờ. Với văn học, hết thảy những trường ca kể lại cuộc chiến đấu chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua. Kiến trúc tôn giáo phát triển mang phong cách Roman nặng nề biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là phong cách Gothique nhẹ nhàng hơn với xu thế vươn lên cao hướng tới Thiên đường. Hội hoạ không có giá trị riêng, nó phụ thuộc hoàn toàn vào kiến trúc vì chỉ được sử dụng với mục đích trang trí nhà thờ và minh hoạ các tích trong Thánh Kinh... Chỉ tới khi người Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện cuộc tấn công [1453], Constantinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantine chạy nạn sang Tây Âu đã mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết học Hy Lạp cổ đại khiến Châu Âu hết sức kinh ngạc. Từ đó dấy trong tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Châu Âu khát khao tìm kiếm các giá trị cũ rực rỡ, sáng tạo những giá trị mới. Một thời kỳ mới của nghệ thuật được mở ra. Người ta gọi đó là thời kỳ văn nghệ Phục hưng châu Âu. Thời kỳ này, hội họa thu nhận bộ khung khoa học thấu thị và giải phẫu làm cho trình độ tả thực tái hiện khách quan chưa từng có. Từ thế kỷ XV người ta đã phát hiện ra sơn dầu. Để vẽ những vật có sự chuyển biến về khối các tác giả thường lấy màu pha với màu đen để tạo ra bóng tối. Sự chuyển biến đậm nhạt bằng cách pha các màu với màu đen làm cho các hoạ sỹ diễn tả rất tinh tế trong phong cảnh cũng như khi vẽ người. Bản chất của sơn dầu là đục nên khi pha với màu đen nó thường tạo nên hòa sắc trầm ấm. Vì vậy trong các tác phẩm hội hoạ cổ điển ánh sáng rất sâu, hình ảnh của mọi vật có khối tích được nghiên cứu

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề