Tiểu luận về giá trị thặng dư siêu ngạch

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Tiểu luận Vận dụng giá trị thặng dư của Mác vào Việt Nam
  2. Mục lục LÝ LUẬN VỀ 2 PHƢƠNG PHÁP GIÁ TRỊ THẶNG DƢ: .............................................................. 5 Giá trị thặng dƣ: .................................................................................................................................. 5 Hai phƣơng pháp sản xuất ra giá trị thặng dƣ: .................................................................................... 5 Tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dƣ: .................................................................................. 6 GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN VỀ HAI PHƢƠNG PHÁP GTTD TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY. ...................................................................................................................................... 9 Sự cần thiết phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển học thuyết GTTD: .......................................... 9 Tính thực tiễn của hai phƣơng pháp sản xuất GTTD: ........................................................................ 9 Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GTTD TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM ....................................................................................................................... 14 KẾT LUẬN ....................................................................................................................................... 17
  3. Lời nói đầu Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dƣ của C.Mác ra đời đến nay, thế giới đã trải qua những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dƣ nhƣ: những cuộc “khủng hoảng giẫy chết” của CNTB thế giới đầu thế kỷ XX; sự ra đời của hệ thống XHCN hiện thực; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nƣớc TBCN; sự tan rã của hệ thống dân tộc thuộc địa… Ngày nay, dƣới sự tác động nhƣ vũ bão của cách mạng khoa học – công nghệ và sự phát triển của kinh tế thị trƣờng hiện đại, bức tranh thế giới đã và đang diễn ra nhiều đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tƣ tƣởng... Nƣớc ta đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN, để phù hợp với những vấn đề mà thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển các học thuyết đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dƣ. Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về 2 phƣơng pháp sản xuất giá trị thặng dƣ và sự vận dụng vào Việt Nam trong thời kỳ đổi mới để từ đó tìm ra những kết luận mới phục vụ cho nhiệm vụ phát triển nền kinh tế đất nƣớc.
  4. PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ 2 PHƢƠNG PHÁP GIÁ TRỊ THẶNG DƢ: 1. Giá trị thặng dƣ: Học thuyết về giá trị thặng dƣ là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dƣ của Mác vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần đƣợc phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay. Trƣớc Mác, ngay cả những nhà kinh tế tƣ bản lỗi lạc nhƣ D.Ricardo cũng không giải thích đƣợc vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tƣ bản vẫn thu đƣợc lợi nhuận. Nhờ phân biệt đƣợc phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển giá trị của tƣ liệu sản xuất đã đƣợc tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động trừu tƣợng của ngƣời đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dƣ ra ngoài khoản bù lại giá trị sức lao động, C.Mác gọi là giá trị thặng dƣ mà nhà tƣ bản chiếm đoạt. Công nhân chỉ đƣợc tiếp tục làm thuê chừng nào còn tạo ra đƣợc khối lƣợng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tƣ bản đã trả cho ngƣời đó dƣới hình thức tiền công, nếu không sẽ bị sa thải. Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngoài sức lao động do công nhân sáng tạo ra và nhà tư bản chiếm không. Nhà tƣ bản giành một phần giá trị thặng dƣ này cho sự hƣởng thụ của mình và gia đình mình, phần còn lại đƣợc tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng dƣ hơn nữa. Chính lòng ham mê giá trị thặng dƣ là động lực thúc đẩy nhà tƣ bản dám mạo hiểm bỏ vốn đầu tƣ vào kinh doanh. 2. Hai phƣơng pháp sản xuất ra giá trị thặng dƣ: Hai phƣơng pháp bóc lột giá trị thặng dƣ tuyệt đối và tƣơng đối do Mác phát hiện không phải chỉ là đặc điểm của thời kỳ đầu của CNTB, thời kỳ công nghiệp cơ khí, mà ngày nay chúng vẫn còn đƣợc CNTB sử dụng. Tuỳ điều kiện cụ thể mà phƣơng pháp bóc lột nào đƣợc coi là chủ yếu.
  5. Thuở bình minh của CNTB khi năng suất lao động còn thấp, giá trị thặng dư thu được chủ yếu dựa vào tăng độ dài ngày lao động và cường độ lao động, Mác gọi là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối. Nhƣng phƣơng pháp này bị giới hạn bởi độ dài của ngày trời và sinh lực của ngƣời lao động. Nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và trƣớc sức đấu tranh của GCCN đòi giảm giờ làm việc, các nhà tƣ bản đã tăng thu giá trị thặng dƣ chủ yếu bằng cách tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian người công nhân bù lại giá trị sức lao động, nhờ đó mà tăng thời gian lao động thặng dư, Mác gọi là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối. 3. Tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dƣ: Việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại đã thúc đẩy LLSX ở những nƣớc TBCN phát triển tăng lên trình độ cao hơn trƣớc. Nhờ đó không những các tập đoàn tƣ bản độc quyền thu đƣợc lợi nhuận siêu cao mà đời sống của những ngƣời lao động tại xí nghiệp cũng đƣợc cải thiện, khác xa đời sống của những công nhân dƣới CNTB đầu thế kỷ XVIII. Trƣớc thực tế đó, cộng với sự sụp đổ của mô hình CNXH tập trung quan liêu ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều ngƣời cho rằng khoa học kinh tế chính trị Mác – Lê nin, mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dƣ – “Hòn đá tảng” trong các học thuyết kinh tế của C. Mác, không còn đúng nữa. Bởi vậy, việc luận giải tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dƣ trong nền kinh tế hiện đại trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Học thuyết này không chỉ là cơ sở để hiểu rõ bản chất và xu hƣớng vận động của CNTB mà còn chỉ cho chúng ta con đƣờng tạo ra LLSX của CNXH. Bởi vì CNXH, xét về mặt LLSX, chính là bƣớc tiến tiếp liền ngay sau chế độ độc quyền Nhà nƣớc TBCN. CNXH muốn tồn tại và phát triển cũng phải sản xuất ra nhiều sản phẩm thặng dƣ, và trong điều kiện còn kinh tế hàng hoá, thì giá trị của những sản phẩm thặng dƣ đó cũng biểu hiện ra là giá trị thặng dƣ. Chỉ khác là giá trị thặng dƣ này không rơi vào túi một nhóm nhỏ những ngƣời chủ sở hữu tƣ bản mà đƣợc sử dụng vì phúc lợi chung của chính những ngƣời lao động trí óc và chân tay đã tạo ra giá trị thặng dƣ ấy.
  6. Trong bộ “Tƣ bản”, Mác đã luận chứng toàn diện quy luật vận động của CNTB là quy luật giá trị thặng dƣ; sản xuất giá trị thặng dƣ là quy luật tuyệt đối của phƣơng thức sản xuất TBCN. Công lao vĩ đại nhất của Mác là từ phát hiện giá trị mà đi sâu nghiên cứu bản chất, tác dụng của nó trong sự phát triển CNTB và cũng từ đó Mác đã có một cống hiến mới-theo Lênin – cực kỳ quan trọng là sự phân tích tích luỹ tư bản tức là quá trình biến giá trị thặng dƣ thành tƣ bản, quá trình làm cho giá trị tăng thêm giá trị thặng dƣ với khối lƣợng ngày càng tăng. Từ cái vòng tuần hoàn và chu chuyển của giá trị thặng dƣ mà vang dội kết luận cách mạng của Mác trong bộ “Tƣ bản” rằng: các quy luật kinh tế của CNTB tất yếu dẫn đến, một mặt, sự giảm bớt thƣờng xuyên số trùm tƣ bản chiếm đoạt và lũng đoạn tất cả mọi nguồn lợi của nền sản xuất xã hội, mặt khác, làm tăng thêm số quần chúng bị bần cùng, bị áp bức, bị nô dịch, bị đồi truỵ, bị bóc lột, đồng thời làm tăng sự phẫn nộ của giai cấp này đƣợc cơ cấu của chính quá trình sản xuất TBCN rèn luyện, liên kết và tổ chức lại; sự độc quyền của tƣ bản trở thành xiềng xích của thứ phƣơng thức sản xuất lớn lên cùng với nó. Sự tập trung TLSX và sự xã hội hoá lao động đã đạt tới mức không còn phù hợp với cái vỏ TBCN của nó nữa. Cái vỏ TBCN ấy phải nổ tung bằng một cuộc cách mạng xã hội do chính giai cấp mà CNTB đã rèn luyện, đã liên kết và tổ chức lại thực hiện – GCCN. Mác khi phát hiện phạm trù giá trị thặng dƣ đã gắn liền với việc tƣ bản đặc quyền chi phối giá trị thặng dƣ – chạy theo lợi nhuận và công nhân đấu tranh giành lại, tạo thành mâu thuẫn nhƣ động lực phát triển kinh tế. Từ sau đại chiến thứ hai, CNTB đã đi vào xu hƣớng vận dụng tƣ tƣởng của Mác về giá trị thặng dƣ, nhƣng là để tìm con đƣờng phân phối sao cho vừa tạo động lực mạnh, nhƣng tránh mâu thuẫn đối kháng trong nội bộ mỗi quốc gia, tránh chiến tranh đế quốc, chĩa mũi nhọn vào đối thủ là hệ thống XHCN. Còn hệ thống XHCN với mô hình cũ coi mâu thuẫn và động lực phát triển gắn liền với sự tạo ra và phân phối giá trị thặng dƣ là riêng có của kinh tế thị trƣờng tƣ bản, đã từ bỏ kinh tế thị trƣờng. Với thiết chế đó, kinh tế CNXH trở thành nền kinh tế không cần tìm động lực, do đó cũng không thể có tai hoạ liên quan đến sự phân phối giá trị thặng dƣ.
  7. Từ hai hiện tƣợng đối chứng lịch sử đó, có thể nói học thuyết giá trị thặng dƣ của Mác với sự phát hiện mâu thuẫn và động lực phát triển kinh tế, có ý nghĩa phổ quát và lâu dài gắn liền với quá trình phát triển còn lâu dài của kinh tế thị truờng. Và chỉ có trong nền kinh tế thị trƣờng, mâu thuẫn và động lực ấy mới bộc lộ hết sức mạnh thúc đẩy của nó.
  8. PHẦN II: GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA LÝ LUẬN VỀ HAI PHƢƠNG PHÁP GTTD TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY. 1. Sự cần thiết phải nhận thức lại, bổ sung và phát triển học thuyết GTTD: Mặc dù những tƣ tƣởng, nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu lý luận giá trị thặng dƣ của Mác, về cơ bản, còn giá trị trong thời đại ngày nay, tuy nhiên vẫn cần đƣợc nhận thức lại, bổ sung và phát triển. Ngày nay điều kiện lịch sử đã có nhiều thay đổi khác xa so với điều kiện lịch sử của những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chứ chƣa nói đến thế kỷ 19 mà Mác đã nghiên cứu. Do vậy, để tránh mắc sai lầm mang tính giáo điều, rập khuôn, duy ý trí, một số kết luận của Mác trong điều kiện lịch sử cũ lại dựa trên phƣơng pháp giả định gắn với mục đích nghiên cứu CNTB cổ điển không nên hiểu và vận dụng nguyên si. Hơn nữa, đọc và hiểu đúng nội dung lý luận giá trị thặng dƣ trong bộ “Tƣ bản” là việc không phải ai cũng làm đƣợc. Vì vậy mà phải có sự nghiên cứu cụ thể để rút ra những kết luận mới cho những trƣờng hợp cụ thể. Ngày nay mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng dƣ nói riêng đã có sự thay đổi. Nếu trƣớc đây mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phƣơng thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dƣ của CNTB cổ điển và xu hƣớng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích nhƣ trƣớc, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác bộ “Tƣ bản” với tƣ cách một sách phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trƣờng để xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội ở nƣớc ta. Do đó cần phải thay đổi một số yếu tố và phạm trù kinh tế phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. 2. Tính thực tiễn của hai phƣơng pháp sản xuất GTTD: Trong thời đại ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ; GCTS chủ yếu thực hiện việc bóc lột những ngƣời lao động bằng hình thức bóc lột giá trị thặng dƣ tƣơng đối. Những ngƣời lao động làm thuê bị bóc lột ngày càng nhiều. Cái gọi là
  9. “trung lƣu hoá” một số bộ phận lao động làm thuê, về thực chất, cũng chỉ là một biểu hiện mới của sự bóc lột TBCN. Trong xu hƣớng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Thị trƣờng lao động cũng có sự biến đổi sâu sắc, sự di chuyển lao động từ nƣớc này sang nƣớc khác ngày càng tăng. Tác động quy luật giá trị đối với thị trƣờng này sẽ càng tăng lên mạnh mẽ và tác động đến GTTD. Sự chuyển dịch mâu thuẫn giữa các quốc gia diễn ra mạnh mẽ, sự phân cực xã hội cũng biến đổi, do đó điều kiện chín muồi về mâu thuẫn cũng sẽ không đều giữa các quốc gia. Mặt khác trong điều kiện bành trƣớng thị trƣờng của các công ty xuyên quốc gia thì GTTD có những nét đặc thù và đặc biệt mang tính quốc tế cao. Sự phân phối GTTD trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra không chỉ ở trong điều kiện quốc gia mà cả trong phạm vi quốc tế. Sự phân chia GTTD của Mác chủ yếu giới hạn trong các tập đoàn tƣ bản của một quốc gia, bởi vì nhà nƣớc hồi đó còn đứng ngoài quá trình kinh tế. Nhà nƣớc mới sử dụng quyền lực để “canh gác” cho các tƣ bản hoạt động, còn về cơ bản vẫn tuân thủ sự can thiệp của bàn tay vô hình và thực hiện khẩu hiệu “để mặc cho ngƣời ta làm”. Do vậy Mác cho rằng ngƣời công nhân làm thuê chỉ đƣợc hƣởng phần tƣ bản khả biến chứ không tham gia vào phần phân chia giá trị thặng dƣ. Ngày nay với sự điều tiết của nhà nƣớc, “chế độ tham dự” đã có sự thay đổi. Ngƣời công nhân đã đƣợc tham dự dù là một lƣợng rất nhỏ so với nhà tƣ bản về phần GTTD thông qua quỹ phúc lợi xã hội và lợi tức cổ phần. Tuy nhiên với tỷ lệ nhỏ chƣa làm thay đổi về bản chất của GTTD phân chia. Trong quá trình phát triển của CNTB, sản xuất ra GTTD đƣợc tiến hành thông qua nhiều phƣơng pháp thích ứng với từng giai đoạn và trình độ phát triển của LLSX, NSLĐ, tƣơng quan lực lƣợng giữa các giai cấp, trong đó “sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối tạo thành cái cơ sở chung của chế độ TBCN và là điểm xuất phát của sự sản xuất ra GTTD tƣơng đối”. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện của CNTB và của GTTD tƣơng đối phải dựa trên cơ sở NSLĐ xã hội đạt tới một trình độ nhất định, cho phép ngày lao động của ngƣời công nhân đã có thể chia làm hai phần: lao động tất yếu tạo ra giá trị ngang bằng với giá trị nhà tƣ bản trả cho anh ta dƣới hình thức
  10. tiền công – tiền lƣơng hay giá cả lao động và lao động thặng dƣ, tạo ra GTTD cho nhà tƣ bản để đƣợc nhà tƣ bản thuê. Khi năng suất lao động còn thấp, thời gian lao động còn chiếm phần khá lớn, muốn có nhiều GTTD CNTB phải kéo dài ngày lao động và tăng cƣờng độ lao động để bòn rút đƣợc nhiều lao động không công của công nhân làm thuê. Nhƣng phƣơng thức bóc lột GTTD tuyệt đối, do bị hạn chế cả về mặt tự nhiên – sinh lý, xã hội, GCTS không thể đáp ứng nhu cầu thu GTTD tối đa của GCCN. Cho nên khi luật công xƣởng đƣợc ban hành, CNTB không còn sử dụng phƣơng pháp bóc lột GTTD tuyệt đối nhƣ là phƣơng pháp chủ yếu nữa. Khi đó, nhằm mục đích kéo dài lao động thặng dƣ, ngƣời ta rút ngắn lao động cần thiết bằng những phƣơng pháp cho phép sản xuất ra vật ngang giá với tiền công, trong một thời gian ít hơn, tức là sản xuất GTTD tƣơng đối. Vì thế, nếu việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ gắn với độ dài ngày lao động hay tăng cƣờng độ lao động, thì việc sản xuất ra GTTD tuyệt đối, cách mạng hoá đến tận gốc các quá trình kỹ thuật của lao động cũng nhƣ những tập quán xã hội… Cho nên để hiểu rõ sự sản xuất ra GTTD bằng cách biến lao động cần thiết thành lao động thặng dƣ thì phải gạt bỏ quan niệm giản đơn cho rằng: tƣ bản vẫn nắm quá trình lao động dƣới hình thức do lịch sử để lại hay hiện có. Dƣới tác động của quy luật GTTD, CNTB đã vận động, phát triển qua ba giai đoạn, từng bƣớc thực hiện cuộc đảo lộn… có tác dụng đẩy nhanh tăng NSLĐ xã hội để giảm thời gian lao động tất yếu xuống mức tối thiểu cần thiết, tăng tối đa thời gian cho việc sản xuất GTTD. Bƣớc khởi đầu của quá trình đó diễn ra trong buổi “Bình minh” của CNTB (vào cuối thế kỷ XV và nhiều thập niên đầu của thế kỷ XVI). Khi đó, các nhà tƣ bản chỉ mới có vốn liếng ít ỏi và công cụ lao động thủ công lạc hậu, nhƣng có khát vọng thu đƣợc nhiều GTTD, CNTB đã khắc phục mâu thuẫn này bằng quá trình cách mạng hoá tổ chức lao động – biến lao động cá thể, manh mún thành lao động hiệp tác phù hợp với yêu cầu tất yếu kinh tế, tạo ra sức lao động của một số lao động cá thể tƣơng đƣơng. Ƣu thế đó của lao động hiệp tác, một mặt, làm cho NSLĐ xã hội đƣợc nâng cao, cho phép giảm lao động tất yếu, tăng lao động thặng dƣ, do đó mà
  11. tạo đƣợc nhiều GTTD cho nhà tƣ bản, mặt khác, tạo tiền đề cho CNTB tiến lên giai đoạn cao hơn bằng quá trình cách mạng hoá sức lao động – phân chia ngƣời lao động có chức năng sản xuất sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh thành ngƣời lao động chuyên môn hoá vào khâu công việc mà họ có sở trƣờng nhất trong quy trình sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh. GTTD nhiều – lợi nhuận lớn, lại kích thích lòng thèm khát của các nhà tƣ bản làm sao thu đƣợc nhiều hơn nữa. Bản thân các nhà tƣ bản khác cũng đua tranh áp dụng máy móc để thu đƣợc nhiều GTTTD. Kết quả tất yếu là việc sử dụng máy móc trở thành phổ biến trong các công xƣởng và nền sản xuất TBCN. Với đại công nghiệp cơ khí, ƣu thế của hiệp tác và phân công lao động đã đƣợc vật hoá bằng hệ thống máy móc và hệ thống máy móc là sự “nối dài” của các giác quan và “khuyếch đại” năng lực của con ngƣời lên gấp bội, tạo nên bƣớc phát triển nhảy vọt về NSLĐ xã hội. Sự phát triển của máy móc nhƣ vậy đã làm phát sinh GTTD tƣơng đối bằng cách trực tiếp làm cho sức lao động giảm giá, gián tiếp làm cho sức lao động rẻ đi nhờ tăng NSLĐ xã hội, làm cho những hàng hoá cấu thành giá trị sức lao động giảm xuống. Do đó, ngƣời ta chỉ cần dùng một phần ít hơn của ngày lao động để bù đắp lại giá trị sức lao động; làm cho việc sản xuất GTTD tƣơng đối trở thành phƣơng pháp chủ yếu trong việc tăng GTTD cho nhà tƣ bản. Bằng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại nắm giữ đƣợc, CNTB đã thực hiện sự bóc lột tinh vi gắn quyện và rất hiệu nghiệm ở cả 3 phƣơng pháp. Nhƣng chủ yếu là bóc lột GTTD tƣơng đối và bóc lột GTTD siêu ngạch. Ở các nƣớc tƣ bản phát triển, nhờ áp dụng khoa học và phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại một cách phổ biến trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ mà NSLĐ xã hội tăng cao. Do đó, làm cho giá trị các hành hoá đều giảm xuống và giá trị hàng hoá sức lao động cũng giảm xuống, vì nó do giá trị các hàng hoá liên quan đến tái sản xuất sức lao động quyết định. Cho nên, trong các nƣớc này động lực trực tiếp, thƣờng xuyên thúc đẩy các nhà tƣ bản chăm lo cải tiến tổ chức sản xuất và áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật mới là GTTD siêu ngạch..
  12. Trong điều kiện của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại, các nƣớc tƣ bản phát triển, nhất là các công ty độc quyền xuyên quốc gia và đa quốc gia, có ƣu thế hơn hẳn trong việc áp dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vào sản xuất, kinh doanh. Do đó các nƣớc tƣ bản phát triển và các công ty độc quyền đó có nhiều khả năng sản xuất GTTD siêu ngạch. Đây là nguồn rất to lớn và khá ổn định của lợi nhuận siêu ngạch khổng lồ mà các nƣớc tƣ bản phát triển và các công ty độc quyền thu đƣợc trong quan hệ kinh tế với các nƣớc kém phát triển. Hậu quả của quá trình này là các nƣớc tƣ bản phát triển thu đƣợc lợi nhuận siêu ngạch kếch xù và giầu lên nhanh chóng. Trái lại các nƣớc kém phát triển thì tài nguyên ngày một cạn kiệt, sức ngƣời mòn mỏi, nợ nần chồng chất và nạn đói kinh niên…
  13. PHẦN III: Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT GTTD TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM Là một nƣớc tiến lên XHCN chƣa và không kinh qua giai đoạn phát triển TBCN hay đúng hơn là không qua giai đoạn thống trị của GCTS. Vì vậy, chúng ta không đƣợc kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát nhƣ những sáng tạo của ngƣời đi trƣớc cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dƣ chính là luận điểm sản phẩm của lao động thừa vƣợt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích luỹ quĩ sản xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa…” Chúng ta lựa chọn con đƣờng đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nƣớc tiểu nông cũng có nghĩa từ một nƣớc chƣa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất hàng hoá. Cái thiếu của đất nƣớc ta – theo cách nói của Mác – không phải là và chủ yếu là cái đó, mà cái chính là chƣa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu TBCN. Đất nƣớc ta đang đứng trƣớc nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra ngày càng nhiều GTTD dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng ta không thể đạt đƣợc mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút ngắn những quá trình tất yếu mà CNTB đã phải trải qua và đang thực hiện để có một nền kinh tế thị trƣờng cực thịnh nhƣ ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá TBCN hình thành và GTTD cũng đƣợc sản xuất ra với khối lƣợng lớn lao trong sự phân công lao động, đặc biệt khi khoa học công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi vào sản xuất với quy mô chƣa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dƣ của CNTB đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự. Nhƣng đó cũng là những giai đoạn của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà chúng ta
  14. chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết GTTD của Mác. Trong hoàn cảnh đất nƣớc ta hiện nay cần có phƣơng hƣớng khai thác và vận dụng những tƣ tƣởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dƣ một cách hiệu quả để đạt đƣợc những thành tựu mới đƣa nền kinh tế đất nƣớc phát triển theo định hƣớng XHCN. Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù riêng có của CNTB và phạm trù giá trị thặng dƣ xét về mặt định lƣợng cũng vậy. Nó tồn tại nhƣ là một bƣớc tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vƣợt khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh; là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải: - Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dƣ và nhất là tăng năng suất của lao động thặng dƣ. - Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tƣ và sử dụng nó. Đó là nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng vốn đầu tƣ sử dụng đƣợc tăng thêm giá trị. - Xây dựng đồng bộ các loại thị trƣờng, kể cả thị trƣờng sức lao động. Vấn đề thu hồi giá trị thặng dƣ và định hƣớng XHCN trong điều kiện cho phép bóc lột giá trị thặng dƣ đã đƣợc Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nƣớc Nga trƣớc đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: - Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dƣ vào ngân sách nhà nƣớc. - Nhà nƣớc sử dụng giá trị thặng dƣ đƣợc điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. - Nhà nƣớc phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã hội. - Ngăn chặn đƣợc những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ đạo XHCN.
  15. Về khái niệm giai cấp công nhân đƣợc hiểu ở thế kỷ trƣớc cũng khác nhiều so với cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều phƣơng diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh: - Xã hội mới – XHCN muốn giải phóng ngƣời công nhân từ ngƣời làm thuê thành ngƣời làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản, vốn. Do vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu sản. Thực tiễn đã diễn ra nhƣ vậy. - Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó đƣợc quan niệm nhƣ là một lực lƣợng lao động vận động theo hƣớng lao động có trí tuệ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trƣng của lao động sống. Do vậy, có nên tách trí thức ra ngoài giai cấp công nhân và nông dân hay không? Điều này cần phải đƣợc chúng ta xem xét.
  16. KẾT LUẬN Nhìn chung, chúng ta thấy rằng học thuyết GTTD rất quan trọng và phức tạp. Sự cần thiết về thời gian thặng dƣ và cùng với nó là sản phẩm thặng dƣ. Nó là nguồn gốc của sự giầu có của mọi xã hội, đó là điều dễ hiểu. Song điều cần thiết là những biện pháp kinh tế tổ chức, đặc biệt về mặt xã hội để kéo dài thời gian thặng dƣ cũng nhƣ việc sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kéo dài ngày lao động, tăng cƣờng độ và tăng năng suất lao động ở những ngành sản xuất tƣ liệu tiêu dùng để rút ngắn thời gian cần thiết đối với một xã hội ở trình độ phát triển thấp nhƣ nƣớc ta. Vấn đề đặt ra với chúng ta là: - Cần phải có những chính sách kinh tế phù hợp để điều hành các hoạt động xã hội theo mục tiêu đã xác định. - Ngăn chặn đƣợc những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo XHCN. Và vấn đề quan trọng nhất về nhà nƣớc là phải có một nhà nƣớc vững mạnh. Nền kinh tế nƣớc ta là nền kinh tế quá độ lên CNXH. Do vậy, cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu sản xuất hàng hoá cũng phải mang tính chất quá độ. Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá phải gắn với lợi ích của nhân dân và lợi ích của tƣ nhân. Nền kinh tế hàng hoá nào cũng xuất hiện những mâu thuẫn và những mối quan hệ trong xu hƣớng vận động của nó. Sự thành công trong chính sách quản lý của nhà nƣớc ta trƣớc hết và chủ yếu là khai thác, duy trì sự thống nhất theo xu hƣớng vận động của GTTD. Coi đó là vấn đề có tầm chíên lƣợc; đồng thời giảm đến mức tối thiểu mâu thuẫn trong việc sử dụng và phân phối GTTD trong các cơ sở kinh tế tƣ nhân TBCN hƣớng chúng vào các hình thức kinh tế CNTB nhà nƣớc, khắc phục khả năng đối kháng của mâu thuẫn vốn là một khả năng hiện thực. Chúng ta cần phải thừa kế và phát triển các học thuyết mà thế hệ đi trƣớc để lại và vận dụng nó cho phù hợp với hoàn cảnh đất nƣớc. Từ đó xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Page 2

YOMEDIA

Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ra đời đến nay, thế giới đã trải qua những biến đổi sâu sắc. Rất nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc “khủng hoảng giẫy chết” của CNTB thế giới đầu thế kỷ XX

04-12-2009 4034 1276

Download

Tiểu luận về giá trị thặng dư siêu ngạch

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.