Ứng dụng công nghệ thông tin trong Chính phủ

Sáng 31/5, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp với Cục Công nghệ thông tin và dữ liệu tài nguyên và môi trường, Vụ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội thảo tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2021 và định hướng đến năm 2030 lĩnh vực công nghệ thông tin và chuyển đổi số.

Ông Lê Phú Hà, Cục trưởng Cục công nghệ thông tin và dữ liệu tài nguyên và môi trường phát biểu tại hội thảo

Theo báo cáo của Cục Công nghệ thông tin và dữ liệu tài nguyên và môi trường, trong giai đoạn 2011-2021, lĩnh vực công nghệ thông tin đã triển khai tổng số 53 nhiệm vụ KH&CN bao gồm: 5 nhiệm vụ cấp quốc gia; 31 nhiệm vụ cấp Bộ và 17 nhiệm vụ cấp cơ sở. Kết quả nghiên cứu KH&CN đã được đưa vào ứng dụng, sử dụng nhanh, kịp thời, hiệu quả đóng góp vào thành công của triển khai Chiến lược ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường; cải cách hành chính và phát triển Chính phủ điện tử; xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; triển khai các đề án, dự án lớn về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành.

Trong đó, về cải cách hành chính và phát triển Chính phủ điện tử, chỉ số cải cách hành chính của Bộ tăng liên tục 10 bậc [từ thứ 16 lên thứ 6 năm 2021], chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin truyển thông tăng 6 bậc [từ 18 lên thứ 12] và Bộ luôn nằm trong nhóm dẫn đầu trong phát triển Chính phủ điện tử. Ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đơn giản hóa là 214/266 [chiếm 80,1%], ước tính hằng năm cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp khoảng 33,8 triệu giờ công lao động và khoảng 1.010,2 tỷ đồng một năm.

Bà Vũ Thị Hằng, phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ [Bộ TN&MT] chia sẻ tại hội thảo

Hệ thống họp trực tuyến sau khi nghiên cứu, đưa vào triển khai đã mang lại hiệu quả lớn đặc biệt trong đại dịch Covid-19, tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2021, đã tổ chức gần 6.630 cuộc họp với sự tham gia của 78.800 điểm với thời gian hơn 10.000 giờ.

Về xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đã trình ban hành 1 Nghị định, 1 thông tư về thu nhận, phổ cập, quản lý, sử dụng dữ liệu; 2 định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng, duy trì, vận hành hệ thống thông tin; kiến trúc chính phủ điện tử [phiên bản 1.0 và 2.0]; chương trình chuyển đổi số ngành tài nguyên môi trường, chương trình KH&CN trọng điểm cấp Bộ về xây dựng, phát triển Chính phủ số và Chuyển đổi số và 3 Tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực CNTT.

Theo đánh giá của bà Vũ Thị Hằng, phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ [Bộ TN&MT], hoạt động KH&CN giai đoạn 2011 - 2021 trong lĩnh vực CNTT của Bộ đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành Chiến lược; cung cấp cơ sở khoa học cho việc chuyển sang công nghệ số trong công tác điều tra, khảo sát, đo đạc, quan trắc về tài nguyên và môi trường; góp phần xây dựng được mô hình và khung cấu trúc cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường làm nền tảng xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành; xây dựng và đưa vào khai thác hệ thống mạng thông tin ngành TN&MT.

Quang cảnh buổi hội thảo

Cùng với đó, góp phần quan trọng triển khai ứng dụng CNTT thay đổi phương thức làm việc phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, cải cách hành chính và phát triển Chính phủ điện tử phục vụ người dân và doanh nghiệp; góp phần hiện đại hóa, ứng dụng các giải pháp công nghệ thông tin tiên tiến, dần nắm bắt được các công nghệ cốt lõi, áp dụng trong chuyên môn nghiệp vụ, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về TN&MT, kết nối, cung cấp, chia sẻ thông tin dữ liệu, tạo tiền đề bước vào kỷ nguyên số, hoạt động dựa trên dữ liệu số, công nghệ số, mô hình số.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe các bài tham luận về “Kết quả nghiên cứu, ứng dụng trong giám sát hệ thống CNTT ngành TN&MT”; “Tích hợp, chia sẻ dữ liệu TN&MT phục vụ chuyển đổi số ngành TN&MT: kinh nghiệm của TP Hồ Chí Minh”; “Thu nhận, xử lý, trực quan hóa và phân tích dữ liệu quan trắc TN&MT”; “Xu hướng về khoa học dữ liệu và một số đề xuất cho ngành TNMT giai đoạn 2021-2030" và “Điện toán đám mây trong công cuộc chuyển đổi số: cơ hội và thách thức”. Đồng thời, trao đổi, thảo luận về định hướng hoạt động KH&CN trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số ngành TN&MT và các giải pháp tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy nghiên cứu KH&CN trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo

Ghi nhận các góp ý của các nhà quản lý, các chuyên gia, nhà khoa học, Cục trưởng Cục công nghệ thông tin và dữ liệu tài nguyên và môi trường Lê Phú Hà cho biết định hướng nghiên cứu KH&CN lĩnh vực công nghệ thông tin và chuyển đổi số giai đoạn 2021-2030 sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển Chính phủ số, chuyển đổi số, dữ liệu mở, chiến lược quản lý toàn diện nguồn tài nguyên số, thương mại hóa thông tin, số liệu thúc đẩy kinh tế số ngành TN&MT; nghiên cứu ứng dụng, phát triển các giải pháp công nghệ nền tảng, trong đó tập trung vào các nền tảng dữ liệu lớn, nền tảng số tập trung, hệ sinh thái phân tích dữ liệu, ứng dụng AI, nền tảng dự báo, cảnh báo, các giải pháp bảo vệ bản quyền dữ liệu số, bảo đảm an toàn, an ninh và bảo mật thông tin.

Bên cạnh đó, nghiên cứu ứng dụng, phát triển, làm chủ và chuyển giao một số công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như điện toán đám mây, IoT, khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, học máy, chuỗi khối, thị giác máy tính và các công nghệ thông minh trong quan trắc, điều tra, thu thập thông tin, dữ liệu về tài nguyên và môi trường; nghiên cứu, xây dựng một số tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật làm nền tảng cho vận hành Chính phủ điện tử, phát triển Chính phủ số, chuyển đổi số; xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, liên ngành cho việc ứng dụng AI, Big data vào lĩnh vực TN&MT.

Kết quả triển khai ứng dụng Công nghệ thông tin phục vụ cải cách hành chính trong Công an tỉnh Hà Tĩnh nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển của Chính phủ điện tử trong thời gian tới.

Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an, UBND tỉnh về việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cải cách hành chính nhằm góp phần đẩy mạnh sự phát triển của Chính phủ điện tử, Công an tỉnh Hà Tĩnh đã thành lập Ban Chỉ đạo Chính phủ điện tử và triển khai hoạt động của Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Chính phủ điện tử trong Công an tỉnh. Đồng thời đưa mục tiêu xây dựng Chính phủ điện tử vào nội dung kế hoạch và phát triển công nghệ thông tin hàng năm của Công an tỉnh.
          Trong giai đoạn 2019 - 2020, Công tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được một số kết quả nổi bật như: Đã triển khai dự án “Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác cải cách hành chính trong toàn lực lượng Công an tỉnh” để nâng cấp toàn bộ hạ tầng mạng trụ sở chính và triển khai hệ thống mạng đến Công an các huyện, thành phố, thị xã, các đơn vị độc lập ngoài trụ sở Công an tỉnh. Phối hợp với VNPT tỉnh Hà Tĩnh triển khai lắp đặt đường truyền đến 216/216 trụ sở  Công an xã, phường, thị trấn phục vụ công tác triển khai Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bên cạnh đó, thường xuyên duy trì, đảm bảo cổng thông tin điện tử Công an tỉnh hoạt động ổn định, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đặt ra nhằm tuyên truyền phổ biến các văn bản pháp luật liên quan đến công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự; cung cấp và tiếp nhận thông tin của nhân dân có liên quan đến chức năng nhiệm vụ giải quyết của công an tỉnh; tạo điều kiện cho công dân tiếp cận, khai thác, sử dụng các biểu mẫu, tờ khai liên quan đến thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng của ngành Công an. Đến nay, Cổng Thông tin điện tử Công an tỉnh có trên 04 triệu lượt truy cập; cập nhật, đăng tải 156 dịch vụ công trực tuyến, trong đó có 06 thủ tục hành chính cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4.
          Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực quản lý cư trú, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã thu thập thông tin dân cư đối với 100% nhân khẩu, 100% phiếu yêu cầu xác minh của các đơn vị địa phương gửi đến được xác minh và trả lời kịp thời. Kể từ ngày 25/6/2020, áp dụng hiệu quả phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu phương tiện giao thông của Cục Cảnh sát giao thông nhằm triển khai thực hiện công tác đăng ký xe sử dụng chứng từ lệ phí trước bạ điện tử và dịch vụ nộp tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ lên cổng Dịch vụ công Quốc gia.
 

Quốc Oai - PV01

QPTD -Thứ Hai, 15/08/2022, 08:41 [GMT+7]

Ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử trong Quân đội

Ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử trong Quân đội là nội dung có tính đột phá trong xây dựng nền hành chính quân sự hiện đại. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết hiện nay, góp phần xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung đã, đang là hoạt động phổ biến, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả công tác của từng ngành, lĩnh vực và toàn xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, ứng dụng công nghệ thông tin được các cơ quan, đơn vị trong toàn quân ngày càng chú trọng, trở thành “phương tiện chủ lực” không thể thiếu trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành của người chỉ huy; phương tiện truyền đạt chỉ thị, mệnh lệnh, xử lý, trao đổi thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, bí mật. Không những thế, ứng dụng công nghệ thông tin còn góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách hành chính, phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong Quân đội và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020 theo Nghị quyết số 30c/2011/NQ-CP, ngày 08/11/2011 của Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã triển khai Đề án cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020; Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, các cơ quan, đơn vị đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các hệ thống: quản lý văn bản, hồ sơ công việc; thư điện tử quân sự; thông tin chỉ đạo điều hành; họp trực tuyến; báo cáo trên mạng chuyên dùng,... tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên tiếp cận, làm quen và nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin, làm việc trên môi trường mạng, giảm tỷ lệ gửi, nhận văn bản giấy, giúp công tác chỉ đạo, điều hành được kịp thời, chính xác và bảo đảm an toàn thông tin. Bộ Quốc phòng đã triển khai hệ thống dịch vụ công trực tuyến kết nối với hệ thống một cửa liên thông, từng bước cung cấp các dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4, giúp công dân, doanh nghiệp tiếp cận, thực hiện các thủ tục hành chính do Bộ Quốc phòng quản lý được thuận tiện, dễ dàng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện còn một số hạn chế, bất cập cần phải khắc phục, như: các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa thật sự quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành; trình độ về công nghệ thông tin của cán bộ, nhân viên chưa đồng đều; việc sử dụng chữ ký số chưa được triển khai quyết liệt, nên vẫn phải duy trì cả hệ thống gửi, nhận văn bản trên môi trường điện tử và văn bản giấy, làm tăng khối lượng công việc; giải pháp gửi, nhận văn bản mật trên môi trường điện tử đang trong quá trình thử nghiệm, trong khi số lượng văn bản mật của Bộ Quốc phòng chiếm tỷ lệ cao; hệ thống công nghệ thông tin chưa đồng bộ nên việc trao đổi dữ liệu, đối soát dữ liệu giữa các hệ thống chưa thường xuyên; số lượng hồ sơ xử lý trên hệ thống dịch vụ công trực tuyến của Bộ Quốc phòng trên mạng Internet còn hạn chế, v.v.

Để hiện thực hóa các nội dung, chỉ tiêu được xác định trong mục tiêu, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng cải cách hành chính và phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số trong Quân đội hiện nay, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số nội dung giải pháp sau:

1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho cấp ủy, chỉ huy và cán bộ, nhân viên các cấp, nhất là cấp cơ sở nhận thức đúng về chức năng, nhiệm vụ, mục đích, yêu cầu của việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số trong từng cơ quan, đơn vị và toàn quân. Để làm được điều đó, các cơ quan, đơn vị cần tập trung quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, các chỉ thị, kế hoạch của Bộ Quốc phòng; trọng tâm là Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ; Kế hoạch số 3826/KH-BQP, ngày 28/9/2021 của Bộ Quốc phòng về cải cách hành chính trong Bộ Quốc phòng giai đoạn 2021 - 2025; Kế hoạch số 229/KH-BQP, ngày 24/01/2022 của Bộ Quốc phòng về phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số trong Bộ Quốc phòng năm 2022. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch, triển khai thực hiện; trong đó, cần coi trọng xây dựng các quy định khai thác, sử dụng mạng an toàn, hiệu quả, sát với đặc điểm, tính chất đặc thù của hoạt động quân sự, quốc phòng. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc trong quá trình thực hiện để việc ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số trong cải cách hành chính được đồng bộ, đi vào thực chất, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực ứng dụng, khai thác công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, nhân viên các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ, nhân viên kiêm nhiệm công nghệ thông tin.

Trong quá trình thực hiện công tác tuyên truyền cần bảo đảm tiến hành thường xuyên, liên tục, triển khai dưới nhiều hình thức; nội dung, phương pháp tuyên truyền phù hợp cho từng đối tượng, từng loại hình cơ quan, đơn vị, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, chuyển đổi kịp thời cách thức giải quyết công việc trên môi trường điện tử của lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ, nhân viên các cấp; trong đó, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần gương mẫu, đi đầu, trực tiếp ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành, từ đó lan tỏa hành động, hình ảnh đến toàn thể cán bộ, nhân viên trong cơ quan, đơn vị.

2. Tiếp tục triển khai các ứng dụng dùng chung trên mạng máy tính quân sự [hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc, hệ thống thông tin chỉ đạo điều hành, thư điện tử quân sự, phần mềm họp trực tuyến,...] đến các đơn vị cơ sở theo phương châm mạng máy tính quân sự triển khai đến đâu thì các ứng dụng triển khai đến đó; đồng thời, nghiên cứu, xây dựng và triển khai các ứng dụng dùng chung một cách thiết thực, hiệu quả.

Với các ứng dụng đã được triển khai, phải thường xuyên sử dụng; khai thác triệt để hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc, hệ thống thông tin chỉ đạo điều hành, hệ thống thư điện tử quân sự trong các hoạt động chỉ đạo, điều hành và gửi, nhận dữ liệu; loại bỏ việc sử dụng USB không an toàn trong trao đổi dữ liệu. Quá trình sử dụng các ứng dụng cũng là quá trình “làm giàu dữ liệu” cho công tác tổng hợp, phân tích, đánh giá, lưu trữ, tra cứu; đồng thời, cũng giúp phát hiện những bất cập, vướng mắc phát sinh để kịp thời cải tiến, nâng cấp các ứng dụng, điều chỉnh, sửa đổi, ban hành mới các quy trình vận hành phù hợp với thực tiễn. Tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt việc sử dụng chữ ký số cho các ứng dụng trên mạng máy tính quân sự, mở rộng đối tượng sử dụng chữ ký số, tạo tiền đề cho việc giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Đồng thời, đẩy nhanh việc thử nghiệm, hoàn thiện giải pháp gửi, nhận và xử lý văn bản mật trên mạng máy tính quân sự để tăng số lượng hồ sơ, văn bản được gửi, nhận và xử lý trên môi trường điện tử, đáp ứng nhanh, kịp thời, hiệu quả và an toàn thông tin.

3. Đẩy mạnh sử dụng hệ thống dịch vụ công trực tuyến Bộ Quốc phòng trên mạng Internet kết nối với hệ thống một cửa liên thông của Bộ Quốc phòng. Các cơ quan, đơn vị, nhất là các cơ quan chức năng của Bộ, cơ quan báo chí trong Quân đội cần tích cực tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và có chính sách để khuyến khích cho người dân, doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính trên cổng dịch vụ công trực tuyến. Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính và các điều kiện bảo đảm, công bố và triển khai tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công Bộ Quốc phòng. Đưa chỉ tiêu tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ, tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến của bộ phận phụ trách giải quyết thủ tục hành chính vào đánh giá hằng năm. Nghiên cứu, thực hiện thí điểm chỉ tiếp nhận hồ sơ trực tuyến đối với một số loại hình dịch vụ công trực tuyến tương ứng với một số đối tượng người dân, doanh nghiệp sử dụng phù hợp, khả thi trong tiếp cận, thực hiện dịch vụ. Quá trình thực hiện, cần theo dõi, đo lường, đánh giá, quản lý việc cung cấp và hiệu quả sử dụng dịch vụ công trực tuyến của các cơ quan, đơn vị để rút kinh nghiệm và kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh dịch vụ quan trọng này.

4. Chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng truyền dẫn, các hệ thống kết nối, hệ thống lưu trữ, khai thác, phân tích các cơ sở dữ liệu quốc gia [về dân cư, về tài nguyên môi trường, về y tế,...] phục vụ các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và trong ứng phó tình trạng khẩn cấp. Hạ tầng truyền dẫn, kết nối được coi là huyết mạch; hệ thống lưu trữ là một trong những yếu tố không thể thiếu của hệ thống công nghệ thông tin; do đó, cần phải nghiên cứu, tính toán, quy hoạch, thiết kế tổng thể, đồng bộ và đầu tư một cách bài bản, có lộ trình phù hợp. Xây dựng các quy chuẩn, quy định kỹ thuật về cấu trúc dữ liệu trao đổi; các hướng dẫn quản lý, kết nối; quy chế, quy trình chia sẻ dữ liệu trong phạm vi dữ liệu chuyên ngành thuộc thẩm quyền quản lý; ban hành quy chế khai thác, sử dụng dữ liệu của cơ sở dữ liệu được Bộ Quốc phòng giao quản lý, cơ sở dữ liệu của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình.

5. Cùng với triển khai các nền tảng dùng chung trên mạng máy tính quân sự, cần sớm có các giải pháp ứng dụng các công nghệ mới của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như: Điện toán đám mây [Cloud Computing], dữ liệu lớn [Big Data], di động, Internet vạn vật [IoT], trí tuệ nhân tạo [AI], chuỗi khối [Blockchain] và các công nghệ số mới trong quá trình lưu trữ, xử lý, phân tích dữ liệu phục vụ các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Thông qua các nền tảng dùng chung thực hiện việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu theo mô hình kết nối qua các hệ thống trung gian hoặc kết nối trực tiếp giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu. Đây là quá trình thực hiện chuyển đổi số trong công tác cải cách hành chính.

Để công tác cải cách hành chình đi vào nền nếp, thực chất, cần tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm, năng lực của Cơ quan thường trực Cải cách hành chính và Chính phủ điện tử Bộ Quốc phòng, các cơ quan chủ trì triển khai các nội dung cải cách hành chính. Có cơ chế phân công, phối hợp, thống nhất, phân rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể giữa các cơ quan chủ trì triển khai, đơn vị thực hiện để bảo đảm đồng bộ, thống nhất theo lộ trình và mục tiêu đã đề ra.

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN VĂN CHÍNH, Phó Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương - Văn phòng Bộ Quốc phòng

Video liên quan

Chủ Đề