Ví dụ về tư duy sáng tạo trong cuộc sống
Trước tiên, ta hãy nói về năng lực tư duy trong triết học. Triết học chỉ có thể ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ phát triển nhất định cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Do đó, nói đến lịch sử triết học không thể không đề cập tới vấn đề năng lực tư duy của con người, vốn là điều kiện ra đời của triết học, song do tác động trở lại, triết học cũng là khoa học về những quy luật chung nhất của tư duy. Vào thời cổ đại, Aristotle là người đầu tiên biến tư duy thành đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng tư duy cũng có những nguyên tắc tồn tại độc lập và con người chứng minh phải theo đúng quy tắc ấy. Bởi vậy, ông đã xây dựng phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, đã tìm ta nguyên lý của sự chứng minh tam đoạn luận và phân loại 10 phạm trù nhằm mở rộng cả hình thức và nội dung của tư duy. Đến thế kỷ 17, Décertes cũng đã có câu nói nổi tiếng về tầm quan trọng của năng lực tư duy đối với sự tồn tại của con người trong vũ trụ: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”. Nguyên lý cơ bản đó của ông mang ý nghĩa tiến bộ trong lịch sử, bởi nó khẳng định được rằng mọi khoa học chân chính đều phải xuất phát từ “sự nghi ngờ, nghi ngờ ở đây không phải là hoài nghi chủ nghĩa, “mà là sự nghi ngờ về phương pháp luận, nghi ngờ để đạt đến sự tin tưởng”, có nghĩa là tư duy. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đã đạt đến một trình độ cao hơn, thì năng lực tư duy không còn giữ nguyên nghĩa mà đã trở thành năng lực tư duy sáng tạo. Bởi lẽ, người ta không chỉ tư duy để có những khái niệm về thế giới, mà còn sáng tạo nhằm thay đổi thế giới làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp hơn. Với sinh viên nói riêng, năng lực tư duy sáng tạo đã trở thành một trong những điều kiện cần thiết để đem lại cho họ một công việc hứa hẹn khi ra trường hay xa hơn nữa là một chỗ đứng vững chắc trong xã hội và trên thế giới. Do đó, ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, sinh viên đã phải tự chuẩn bị và tạo dựng cho mình năng lực tư duy sáng tạo, coi nó như là hành trang để bước vào đời. Tuy nhiên, năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên mỗi nước trên thế giới thể hiện rất khác nhau. Xin lấy dẫn chứng là 2 cường quốc kinh tế Mỹ và Nhật Bản. Ở Mỹ, nơi lòng say mê sáng tạo đã được coi như kim chỉ nam của mọi thành công, sinh viên luôn phải tự tìm cách nghiên cứu hay giải quyết lấy mọi vấn đề mà học tập đặt ra. Chẳng hạn như kỳ thi tuyển đặc biệt vào trường đại học Oxford (Mỹ). Giáo sư chỉ cầm một tờ báo đọc sau khi đã yêu cầu cậu thí sinh hãy làm điều gì đó làm ông bất ngờ nhất, nhằm đo chỉ số IQ của anh ta. Sau vài giây suy nghĩ, anh bèn châm lửa đốt tờ báo và rồi ung dung bước vào trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ. Ví dụ trên đây luôn coi là ví dụ tiêu biểu nhất cho việc đề cao năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Mỹ. Nói lên sự thông minh, can đảm để đạt đến thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, ví dụ này cũng chỉ rõ tính bột phát trong sức sáng tạo của sinh viên Mỹ, nên đôi khi đẩy nó đến chỗ phản tác dụng như: tinh thần tự giác trong học tập của sinh viên chưa cao, có những sinh viên quá kiêu hãnh về sự thông minh của mình để rồi cuối cùng năng lực tư duy sáng tạo suy giảm. Trái với Mỹ, phương pháp tạo dựng năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên ở Nhật lại khác hẳn. Sinh viên chỉ sáng tạo sau khi tư duy đã chín muồi. Nói cách khác, sinh viên Nhật phải tích lũy một khối lượng kiến thức cần thiết trước khi có thể có những sáng tạo một cáhc đúng nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế, khi bước vào quá trình sáng tạo theo kiểu ngẫu hứng như sinh viên Mỹ, năng lực tư duy sáng tạo của họ rất bị hạn chế và họ buộc phải tuân theo những điều thuộc về nguyên tắc và vốn là truyền thống của đất nước mặt trời mọc. Còn sinh viên Việt Nam thì sao? Không thể phủ nhận đây là tầng lớp nòng cốt trong những chiến lược phát triển của xã hội chúng ta. Đó là những thanh niên thông minh, can đảm, dám đương đầu với mọi thử thách của cuộc sống, và đặc biệt là có năng lực tư duy sáng tạo không thua kém bạn bè trên thế giới. Nhưng điều đáng quý là năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Việt Nam luôn được thể hiện ở những đóng góp về tri thức và sức lực vì sự độc lập của Tổ quốc hay sự phồn vinh của đất nước. Vào thời chiến, khi đất nước bị đế quốc phương Tây đô hộ, thì sinh viên đã đóng góp công lớn vào sứ mệnh lịch sử giành lại độc lập cho đất nước, có những sáng tạo đáng kể nhằm thúc đẩy nhanh quá trình kháng chiến thắng lợi. Một cách trực tiếp, sinh viên đã tìm ra những cải tiến vũ khí, hay có những nghiên cứu về việc ngắm bắn máy bay địch và việc vận chuyển lương thực, đạn dược đến căn cứ cách mạng đúng hẹn và an toàn. Hay một cách gián tiếp, các sinh viên đã đem lời ca tiếng hát làm dịu đi các chiến trường nóng bỏng đạn bom trong phong trào “tiếng hát át tiếng bom”. Những đóng góp ấy của sinh viên trên mọi mặt của đời sống kháng chiến chính là kết quả của năng lực tư duy sáng tạo được thể hiện rất phù hợp. Vào thời bình, khi đất nước đang ngày một phát triển về mọi mặt kinh tế- văn hoá – xã hội, sinh viên cũng luôn là tầng lớp có năng lực tư duy sáng tạo đáng khích lệ. Họ đã thể hiện tri thức tuyệt vời của bản thân trong các cuộc thi quốc tế, đem lại vinh quang cho đất nước. Họ cũng có những công trình nghiên cứu được đánh giá cao và trở thành lực lượng tri thức chủ lực của 1 Việt Nam “hoá rồng” trong tương lai. Tuy nhiên, để có thể đem hết tài năng sáng tạo của mình phục vụ tổ quốc ngày mai, sinh viên cần phải làm những gì ngày hôm nay, nếu năng lực tư duy sáng tạo được coi như là điều kiện quyết định mọi sự thành bại của xã hội, công ty, xí nghiệp và các cá nhân? Dưới đây, xin giới thiệu 10 cách kích thích sự sáng tạo, khả năng ứng biến và năng lực quan sát:
|