Bảo giá hóa đơn giá trị gia tăng

Trên thực tế rất nhiều hợp đồng mua bán không ghi thuế VAT. Tuy nhiên, đã có quy định chung cho những trường hợp này. Doanh nghiệp cần nắm rõ để tránh những tranh chấp không đáng có.

Lưu ý khi hợp đồng không ghi thuế VAT.

1. Thế VAT là gì

Thuế VAT [Value Added Tax] là viết tắt của thuế giá trị gia tăng [GTGT] là loại thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh từ quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Thuế VAT do người tiêu dùng cuối cùng phải nộp, thông thường được người bán thu hộ và nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định. Tùy theo loại hàng hóa, dịch vụ thuế VAT sẽ khác nhau thông thường là 10%, 8% [nếu thuộc mặt hàng được giảm thuế], 5% và 0%. Các hàng hóa, dịch vụ có thuế VAT là 5% và 0% thường ít hơn so các hàng hóa có thuế VAT 10%. \>> Tham khảo: Hoàn thuế VAT là gì? Các trường hợp được hoàn thuế VAT.

2. Lưu ý khi hợp đồng không ghi thuế VAT doanh nghiệp cần nắm được

Trong hoạt động thương mại, để tránh tranh chấp các bên sẽ ký hợp đồng. Theo đó xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động thương mại. Nội dung của hợp đồng thương mại bao gồm: thông tin các bên tham gia hợp đồng; đối tượng của hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng; điều khoản về thanh toán, điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng, điều khoản giải quyết tranh chấp nếu có, chữ ký số… Hợp đồng thương mại thông thường sẽ có nội dung thỏa thuận về giá cả hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên có thể có nội dung về thuế VAT hoặc không.

[1] Trường hợp hợp đồng có ghi thuế VAT

Hợp đồng có nội dung thỏa thuận về giá hàng hóa dịch vụ và có nội dung về thuế VAT.

Ví dụ:

  • “Giá trong hợp đồng là giá đã bao gồm thuế VAT 10%” hoặc “Giá trong hợp đồng là giá chưa bao gồm thuế VAT 10%” “Giá trên chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng 10%” hoặc “Giá trên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng 10%”

Tại phiên họp thứ 28, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, sẽ xem xét đề nghị bổ sung một số dự án luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, trong đó có dự án Luật Thuế giá trị gia tăng [sửa đổi]. Theo đó Chính phủ đề xuất sửa đổi 4 nhóm chính sách lớn là thu hẹp đối tượng không chịu thuế, chịu thuế 5%; sửa đổi các quy định để ngăn gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng, trốn thuế...

CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT HẢI QUAN ĐỂ ĐẨY NHANH MÔ HÌNH HẢI QUAN SỐ TRÁNH THẤT THU NGÂN SÁCH

SẼ TRÌNH ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI XEM XÉT BỔ SUNG VÀO CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH NĂM 2024 ĐỐI VỚI 03 DỰ ÁN LUẬT

Mục tiêu ngăn chặn các hành vi gian lận thuế giá trị gia tăng

Theo Tổng cục Thuế, các hành vi gian lận thuế giá trị gia tăng ngày càng phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo đó, các doanh nghiệp thường lợi dụng kẽ hở trong các quy định để tăng thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ. Các hành vi ngày càng trở nên phức tạp hơn. Nhiều doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh nhiều sản phẩm, hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng lại không có kho hàng hay trụ sở. Mục đích là bán hóa đơn giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp khác, tìm cách hợp thức hóa bán hàng buôn lậu trốn thuế và ăn chặn tiền hoàn thuế.

Hai là, gian lận tăng thuế giá trị gia tăng đầu vào do doanh nghiệp có thể tự in ấn, sử dụng hóa đơn thuế giá trị gia tăng mua bán nội địa. Lợi dụng kẽ hở này, nhiều doanh nghiệp dùng hóa đơn bất hợp pháp, bao gồm hóa đơn chưa hết giá trị sử dụng hoặc chưa có giá trị sử dụng, hóa đơn giả hay hóa đơn của các đơn vị đã bị hủy bỏ địa chỉ kinh doanh để hợp thức hóa việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng.

Sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng để ngăn chặn hành vi gian lận thuế [ Ảnh minh hoạ]

Ba là, doanh nghiệp thực hiện để gian lận thuế giá trị gia tăng là giảm thuế đầu ra. Một trong những hành vi sai phạm phổ biến là các doanh nghiệp sẽ bán hàng nhưng không xuất hóa đơn, mục đích là giấu doanh thu đầu ra để tránh nộp thuế, thậm chí là chiếm đoạt thuế. Với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng hay kinh doanh bất động sản thực hiện hành vi gian lận bằng cách xuất hóa đơn sớm, hoặc chưa thu tiền của khách hàng ngay cả khi dự án, dịch vụ đã được thực hiện. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong hàng hóa tiêu dùng nội bộ, cố tình khai thiếu hoặc không khai thuế giá trị gia tăng đầu ra.

Bốn là, doanh nghiệp cố tình xác định sai thuế suất đối với dịch vụ, hàng hóa. Theo đó, nhập nhèm thuế suất là một trong những chiêu trò cũng khá phổ biến của các doanh nghiệp trốn thuế. Nhiều doanh nghiệp cố tình kê sai thuế suất thuế đầu ra giá trị gia tăng của các mặt hàng chịu 10% thành mặt hàng chịu dưới 5%, có khi các mặt hàng chịu thuế lại được liệt kê vào mục mặt không chịu thuế. Một số doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa được ưu đãi thuế suất còn cố tình khai man để được hoàn thuế hoặc tăng khấu trừ.

Bộ Tài chính cho biết, Luật Thuế giá trị gia tăng [sửa đổi] được thông qua ngày 03/6/2008 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khoá XII, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 để thay thế cho Luật Thuế giá trị gia tăng năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2003, năm 2005. Trải qua 03 lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2013, 2014 và năm 2016, Luật Thuế giá trị gia tăng xử lý các bất cập phát sinh trong thực tiễn và phù hợp với yêu cầu quản lý thuế trong từng giai đoạn.

Tuy nhiên, với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và xu hướng phát triển thời gian tới, chính sách thuế giá trị gia tăng hiện hành phát sinh một số hạn chế nhất định cần tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện để phát huy hơn nữa vai trò của thuế giá trị gia tăng.

Tại lần sửa đổi lần này, Bộ Tài chính đề xuất 4 nhóm chính sách trong đề nghị xây dựng luật. Thứ nhất, mở rộng cơ sở thuế thông qua thu hẹp đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng và đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng 5%. Theo đó, một số hàng hóa, dịch vụ dự kiến chuyển sang đối tượng chịu thuế 5% hoặc 10%. Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các điều khoản nhằm thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt và ngăn chặn gian lận trong việc khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng, phòng chống rửa tiền, hạn chế gian lận để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Thứ ba, sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Giải pháp được Bộ Tài chính đưa ra là nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 5 và Điều 7 để sửa đổi, bổ sung một số quy định về đối tượng không chịu thuế và giá tính thuế để đồng bộ với quy định của các luật khác có liên quan như: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật trồng trọt; Luật chứng khoán. Thứ tư, sửa đổi để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển.Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 8 để sửa đổi, bổ sung quy định về thuế suất đối với dịch vụ xuất khẩu để tránh vướng mắc trong thực hiện; nghiên cứu áp dụng mức thuế suất phổ thông phù hợp.

Dự kiến sẽ đưa mặt hàng phân bón vào diện chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 5% [Ảnh minh hoạ]

Dự kiến sẽ đưa mặt hàng phân bón vào diện chịu thuế giá trị gia tăng

Trước những bất cập của thuế GTGT hiện hành với mặt hàng phân bón, dự kiến sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng lần này sẽ đưa mặt hàng phân bón vào đối tượng chịu thuế VAT với thuế suất 5%. Do hiện nay, Việt Nam nhập khẩu tương đối nhiều phân bón từ nước ngoài. Phần lớn các nước này đưa phân bón vào diện chịu thuế VAT nên doanh nghiệp của họ được hoàn thuế đầu vào khi xuất khẩu sang Việt Nam. Mặt khác, phân bón nhập khẩu vào Việt Nam lại không phải chịu thuế VAT tại khâu nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp nước ngoài có điều kiện hạ giá bán và cạnh tranh không công bằng với phân bón sản xuất trong nước. Trong khi đó, doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước lại gặp nhiều khó khăn. Do phân bón không thuộc diện chịu thuế VAT nên các doanh nghiệp không được kê khai, khấu trừ thuế VAT đầu vào mà phải tính vào chi phí sản phẩm. Điều này khiến giá thành sản phẩm tăng 5 - 8%, bất lợi trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại; đồng thời không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mua sắm, sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định để tạo ra sản phẩm chất lượng cao.

Không chỉ doanh nghiệp mà Nhà nước và nông dân cũng đều chịu thiệt. Nhà nước mất nguồn thu ngân sách do không thu được thuế VAT ở khâu nhập khẩu với phân bón trong khi thuế nhập khẩu thì vốn rất thấp hoặc đã được đưa về mức 0%. Còn nông dân phải mua phân bón với giá cao do các nhà sản xuất trong nước đã đẩy một phần chi phí thuế vào giá thành sản phẩm - nghĩa là mục tiêu giảm giá phân bón để hỗ trợ nông dân không đạt được.

Từ thực trạng này, theo các chuyên gia, quá trình sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng tới đây, cần đưa phân bón vào diện chịu thuế với thuế VAT với thuế suất 5%. Theo phân tích của các chuyên gia, việc áp thuế VAT 5% với phân bón vừa không làm tăng giá thành sản phẩm, vừa tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp phân bón trong nước. Khi đưa phân bón vào diện chịu thuế VAT với thuế suất 5%, cần sửa đổi các quy định về hoàn thuế cho đồng bộ để tránh thiệt thòi cho doanh nghiệp. Thực tế đã có doanh nghiệp nộp thuế “âm” qua nhiều năm [do thuế VAT đầu vào là 5%, thuế VAT đầu ra là 10%] nhưng không được hoàn thuế do không thuộc diện được hoàn thuế.

Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu, xem xét thấu đáo khi sửa Luật Thuế giá trị gia tăng, trình Quốc hội năm 2024.

Chủ Đề