Bình đẳng giới trong giáo dục là gì

Quang cảnh tọa đàm về bình đẳng giới trong lĩnh vực GD-ĐT

[Thanhuytphcm.vn] - Ngày 13/11, Công đoàn Trường Đại học Sư Phạm TPHCM, Trường đại học Sài Gòn, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, Đại học Thể dục Thể thao TP và trường Cán bộ Quản lý Giáo dục TP phối hợp tổ chức tọa đàm về "Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo".

Theo đó, Luật bình đẳng giới tại điều 14 quy định nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng, bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo, trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Luật cũng quy định biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm: quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo; lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.

Từ những yêu cầu trên, ngành giáo dục và đào tạo [GD-ĐT] đã ban hành Quyết định phê duyệt kế hoạch hành động về bình đẳng giới với 6 mục tiêu quan trọng gồm: tăng tỉ lệ nữ tham gia các vị trí quản lý, lãnh đạo trong các cơ sở giáo dục, các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và nghiên cứu khoa học; thu hẹp khoảng cách giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong tiếp cận giáo dục. Ngành cũng đặc mục tiêu đảm bảo các vấn đề về giới, bình đẳng giới được lồng ghép trong chương trình tổng thể, chương trình môn học, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; nâng cao chất lượng công tác truyền thông về bình đẳng giới; phòng chống bạo lực học đường, bạo lực học đường trên cơ sở giới; lồng ghép giới vào hoạch định chính sách, lập kế hoạch và quản lý ngành giáo dục.

Tại tọa đàm, các đại biểu cũng đã thảo luận nhiều về công tác bình đẳng giới trong lĩnh vực GD-ĐT gắn liền với chuyên môn, nghiệp vụ. Các đại biểu cũng chia sẻ những sáng kiến, cách làm hay trong quá trình triển khai công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong ngành giáo dục nhằm góp phần làm thay đổi cách nhìn, cách ứng xử giữa nam và nữ.

Điển hình tại Khoa mầm non trường Đại học Sư phạm TPHCM, bình đẳng giới hay còn được xem truyền thống của Khoa là ưu tiên cho các cô đứng lớp giảng dạy gần, chủ động chọn giờ lên lớp. Ông Nguyễn Anh Trường, Chủ tịch Công đoàn Khoa mầm non cho biết thêm, nhiều hoạt động học tập, sinh hoạt, giao lưu, vui chơi giải trí đều do các cô quyết định, tuy nhiên, các cô đều tham khảo với các thầy, hoặc sắp xếp để mọi việc đều thuận tiện và chu đáo nhất.

Tại Trường Đại học Sài Gòn, các thầy, cô giáo cũng có sự tương thân, giúp đỡ nhau trong quá trình giảng dạy. Thực hiện bình đẳng giới tại trường cũng được cụ thể hóa bằng ngày 8/3 dành cho phụ nữ và ngày 3/8 cho phái nam; các thầy giáo trẻ, chưa có gia đình thường đến trường sớm để trông coi, quản lý phòng, ngược lại các cô cũng thường xuyên thăm hỏi, động viên và tổ chức thay đổi ca trực…

Nhiều giáo viên cho rằng, bình đẳng giới trong GD-ĐT trong giai đoạn hiện nay cũng cần gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi, vị thế và cơ hội cho dù đó là nam hay là nữ...

Trần Hoàng

Tin liên quan

Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Hữu Nhân, Trưởng phòng Chính trị Tư tưởng, Phó ban Vì sự tiến bộ phụ nữ ngành Giáo dục [Sở GD&ĐT TP Cần Thơ].

- Quan điểm của ông về vai trò BĐG trong ngành Giáo dục hiện nay là như thế nào?

- Vấn đề BĐG trong giáo dục thời gian qua luôn được quan tâm và được khẳng định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật; các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. 

BĐG là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Năm 2006, Quốc hội thông qua Luật BĐG, đưa BĐG vào tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Đặc biệt, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

Với ngành Giáo dục, vấn đề BĐG có vai trò quan trọng, luôn được quan tâm. Thực hiện tốt BĐG sẽ giúp tăng chất lượng nguồn nhân lực trong xã hội. Một nhà giáo dục đã viết: “Giáo dục một người đàn ông, ta được một gia đình, giáo dục một người phụ nữ ta được cả một thế hệ”. Do vậy, mọi học sinh cần được khuyến khích học tập, sáng tạo bình đẳng. BĐG trong GD-ĐT muốn phát huy hiệu quả cần cách tiếp cận toàn diện, từ môi trường dạy học, sách giáo khoa, chương trình, đến đội ngũ giáo viên, quản lý, chính sách, chế độ, quy định…

Với trách nhiệm quản lý Nhà nước, Bộ GD&ĐT đã tiến hành lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông và thực hiện rà soát vấn đề BĐG trong sách giáo khoa hiện hành. Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức BĐG cho cán bộ, nhà giáo, người lao động của ngành Giáo dục cũng đã đạt những kết quả đáng kể.

- Giáo dục BĐG trong nhà trường thực hiện ra sao, thưa ông?

- Giáo dục BĐG trong nhà trường hiện nay có nhiều hình thức, cụ thể như nội dung trong môn học Giáo dục công dân; thông qua hoạt động ngoại khóa; câu lạc bộ pháp luật trong trường học… Các trường học ở TP Cần Thơ còn có Tủ sách pháp luật. Theo đó, nội dung BĐG cũng được trang bị đầy đủ để thầy, trò tìm hiểu, tuyên truyền và thực hiện.

Nhân dịp các ngày lễ như Quốc tế phụ nữ; ngày Phụ nữ Việt Nam… thầy, trò còn tổ chức văn nghệ, trình diễn tiểu phẩm hoặc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật, BĐG. Qua đó, công tác tuyên truyền về BĐG hết sức hiệu quả. Đây là giải pháp thiết thực, ý nghĩa, dễ đi vào lòng người, được nhà trường, phụ huynh, học sinh nhiệt tình ủng hộ.

Bên cạnh đó, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ ngành Giáo dục thành phố thường xuyên chăm lo đời sống cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nữ. Hoạt động này được tuyên truyền rộng rãi, giúp cán bộ, giáo viên, học sinh nữ hiểu biết, tự tin về vai trò nữ giới trong ngành… Quan điểm của ngành Giáo dục thành phố là giáo dục BĐG từ gốc, tức là tuyên truyền, giáo dục cho học sinh từ những việc nhỏ nhất, để các em học sinh cả nam và nữ thấy được vai trò của BĐG. Từ nhà trường, đến gia đình các em có cái nhìn khách quan, thực hiện tốt BĐG.

Ông Nguyễn Hữu Nhân, Trưởng Phòng Chính trị tư tưởng, Phó ban Vì sự tiến bộ phụ nữ ngành Giáo dục [Sở GD&ĐT TP Cần Thơ].

- Với Chương trình, sách giáo khoa, chính sách, chế độ… ở góc độ BĐG, ông thấy có sự thay đổi như thế nào?

- Thực hiện quy định về BĐG trong lĩnh vực GD-ĐT, những năm qua, phụ nữ và trẻ em gái luôn được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong việc nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong các cấp bậc học được thu hẹp.

Đáng ghi nhận nhất chính là sự nhận thức, chú trọng công tác BĐG thể hiện rõ nét trong Chương trình, sách giáo khoa mới. Trước kia, BĐG chưa được chú trọng trong sách giáo khoa. Hình ảnh lực lượng công an, quân đội thiếu vắng bóng dáng phụ nữ. Còn việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái thiếu vắng hình ảnh người nam… Tuy nhiên, với Chương trình, sách giáo khoa mới, vấn đề giới đã được quan tâm và chú trọng kỹ càng hơn. Các hình ảnh, nội dung trong sách có sự hài hòa giữa nam và nữ. Điều này tuy là chi tiết không lớn nhưng sẽ giúp học sinh nhận thức đầy đủ về BĐG. Chính các em là những chủ nhân tương lai của đất nước, là một gia đình trong xã hội. Từ nhỏ được giáo dục tốt về BĐG thì những người cha, người mẹ tương lai thực sự trở thành công dân ưu tú, đóng góp quan trọng vào nguồn lực cho xã hội.

Về chế độ, chính sách trong BĐG, ngành Giáo dục đã thực hiện tốt. Nữ giới tham gia vào vị trí chủ chốt, quan trọng trong các đơn vị, trường học ngày càng tăng. Cơ hội nâng cao trình độ, quy hoạch cán bộ cũng được nhà trường, phòng GD&ĐT, sở GD&ĐT… quan tâm. Cùng với đó là bảo đảm cân bằng nam giới và nữ giới trong các khóa đào tạo, tập huấn ở các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân.

- BĐG trong ngành Giáo dục tuy đạt kết quả khả quan nhưng đâu đó vẫn có… điểm mờ do nhận thức người đứng đầu và ngay cả nữ giới. Để cải thiện tình hình, theo ông chúng ta nên làm gì?

- Việc thúc đẩy thực hiện BĐG trong lĩnh vực GD-ĐT cần được tăng cường hơn. Tiếp tục hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện các quy định của pháp luật, chương trình hành động quốc gia về BĐG, trong đó có BĐG trong GD-ĐT. Cụ thể như hỗ trợ nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng có con dưới 36 tháng tuổi, mang thai, nghỉ thai sản…

Truyền thông nâng cao nhận thức và chia sẻ thông tin hướng đến gia đình và trường học để khuyến khích và huy động trẻ em đến trường, tạo điều kiện hòa nhập cho những trẻ em gái có hoàn cảnh khó khăn. Chú trọng lồng ghép giới trong chương trình, sách giáo khoa, gồm nội dung, hình ảnh, ngôn ngữ đảm bảo BĐG...

Quan trọng nhất là bản thân mỗi phụ nữ phải tự lực tự cường phấn đấu vươn lên, rèn luyện theo các tiêu chí: Có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa để khẳng định mình, cống hiến cho đất nước cũng như gia đình.

- Xin cám ơn ông!

Cùng với sự phát triển của xã hội, càng ngày phụ nữ càng chiếm nhiều vị trí quan trọng trong xã hội. Điển hình là Tổng thống Đức Angela Merkel hay Nữ hoàng Anh Elizabeth. Đây là kết quả của sự đấu tranh bền bỉ trong công cuộc thực hiện bình đẳng giới. Vậy, khái niệm bình đẳng giới là gì?

Sau đây, Luật Hoàng Phi sẽ giúp Quý vị hiểu rõ hơn về vấn đề trên.

Bình đẳng giới là gì?

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

Khi bắt đầu hình thành những mô hình xã hội loài người đầu tiên, con người có được thức ăn thông qua việc hái lượm, trồng trọt. Chúng đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người phụ nữ. Khi người phụ nữ có khả năng tìm kiếm nguồn thức ăn dồi dào hơn nam giới, chúng sinh ra sự lệ thuộc nhất định trong cuộc sống. Từ đó, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong xã hội được coi trọng, kéo theo là sự hình thành tất yếu của công xã thị tộc mẫu hệ.

Tuy nhiên, cùng sự phát triển của công nghệ đúc đồng, hoạt động săn bắn, chăn nuôi mà nam giới dần nâng cao vị thế của mình. Và từ đó đến nay, nam giới thường chiếm những vị trí quan trọng trong xã hội. Đặc biệt trong xã hội cổ đại, trung đại, rất hiếm khi người phụ nữ có tiếng nói trong xã hội.

Xã hội phụ hệ đã kéo dài và phát triển trong thời gian quá dài, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã bén rẽ sâu trong tiềm thức của nhiều người. Nhưng, cùng với sự phát triển của xã hội, khi phụ nữ có thể tìm kiếm sự hỗ trợ từ công nghệ, cũng như tầm quan trọng của tri thức ngày càng được nhận thức rõ ràng, thì dần dần phụ nữ đã khẳng định được vị thế của mình. Điều đó dẫn đến cuộc đấu tranh đòi bình đẳng giới.

Ngoài việc giải đáp bình đẳng giới là gì? chúng tôi tiếp tục chia sẻ các thông tin có liên quan đến bình đẳng giới trong các nội dung tiếp theo của bài viết, do đó, Quý vị đừng bỏ lỡ.

Ý nghĩa của luật bình đẳng giới

Với quy định như vậy, quyền bình đẳng giới nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử về giới; Tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ; đồng thời thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Pháp luật đã đưa ra những quy định nghiêm cấm những hành vi sau đây:

– Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới;

– Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức;

– Bạo lực trên cơ sở giới;

– Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật

Đối xử công bằng là con đường tiến tới bình đẳng giới

Để thấy sự khác biệt giữa công bằng và bình đẳng, chúng ta có 02 ví dụ sau:

Ví dụ 1: A và B đều muốn xem bóng đá, nhưng do đã đủ chỗ, họ chỉ có thể đứng ngoài sân để xem thi đấu. Nhưng họ lại bị ngăn cách bởi 1 hàng rào. Vì vậy, ban tổ chức đã cho A và B 02 chiếc ghế ý hệt nhau. Tuy nhiên, do A cao hơn B, nên A có thể quan sát trận đấu, còn B thì không. Đó là do ban tổ chức đã đối xử công bằng giữa A và B.

Ví dụ 2: Cũng tương tự như trên, nhưng vì để A cũng có thể xem được trận đấu, ban tổ chức đã đổi lại cho B chiếc ghế cao hơn. Đó là sự đối xử bình đẳng.

Như vậy, công bằng là sự giống nhau trong cách thức xử sự với những các nhân khác nhau trong mọi tình huống, dù đó là phân phối lợi íc hay gánh nặng. Sự công bằng đem lại cho cá nhân một cơ hội bình đẳng, để cho họ đạt được tiềm năng cao nhất. Theo đó, công bằng đảm bảo mọi người sẽ được cung cấp nguồn tài nguyên, lợi ích như nhau. Tuy nhiên, chính vì công bằng, nên quyền lợi mỗi người sẽ có sự khác nhau trong mỗi hoàn cảnh khác nhau.

Trong khi đó, bình đẳng là những gì chúng ta gọi khi mà mọi người ở cùng cấp độ, được hưởng quyền lợi như nhau. Khi đó, mọi người được đối xử theo cùng một cách, mà không đưa ra bất kỳ ảnh hưởng nào đến nhu cầu và yêu cầu của họ. Đó là một tình huống mà mỗi và mọi cá nhân được cấp quyền và trách nhiệm như nhau, bất kể sự khác biệt cá nhân của họ.

Do đó, công bằng chỉ là một quá trình trong khi bình đẳng là kết quả. Và bình đẳng cũng chính là mục tiêu hướng tới của xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, mọi người phải đấu tranh cho sự bình đẳng, nhưng công bằng lại là con đường tất yếu.

Ví dụ về bình đẳng giới:

Ví dụ: Anh A và Chị B đều là nhân viên văn phòng tại Công ty X, do công ty có nhiều việc nên phải huy động nhân viên làm ngoài giờ và tiền làm ngoài giờ của nam và nữ là như nhau không có sự phân biệt giữa người nam và người nữ.

Tại sao phải đẩy mạnh bình đẳng giới?

Từ việc hiểu Bình đẳng giới là gì? có thể nhận thấy một số tầm quan trọng của việc bình đẳng giới đối với xã hội. Vậy tại sao phải bình đẳng giới?

Từ xưa tới nay tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại trong xã hội. Mặc dù hiện nay xã hội ngày càng phát triển nhưng ở đâu đó xung quanh chúng ta, tư tưởng đó vẫn chưa thể xóa bỏ. Vì vậy việc thực hiện tốt bình đẳng giới trong xã hội sẽ giúp cho những quan niệm lạc hậu bị loại khỏi. Không còn sự phân biệt trong bất cứ trường hợp nào dựa trên tiêu chí giới tính.

Từ đó có thể hiểu thúc đẩy bình đẳng giới là mục tiêu nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới, qua đây tạo cơ hội ngang bằng nhau cho cả năm và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực trong xã hội.

Đồng thời, việc đẩy mạnh bình đẳng giới cũng khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền con người, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trên thực tế và tiến tới hội nhập trong khu vực và quốc tế

Cần làm gì để thúc đẩy bình đẳng giới tại Việt Nam?

– Tăng cường pháp chế về bình đẳng giới, tức là phải rà soát, bổ sung, ban hành đầy đủ các loại văn bản liên quan đến bình đẳng giới: bao gồm các nghị quyết, chỉ thị, văn bản của Đảng; các văn bản luật và dưới luật; các loại quy chế, quy định, nội quy của cơ quan đơn vị; các quy định, hương ước của dòng họ, tổ, thôn , xóm; các quy định, nội quy của gia đình…

– Đồng thời phải thường xuyên nâng cao năng lực [kiến thức, kỹ năng, thái độ] về bình đẳng giới cho cả nam và nữ trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trong gia đình, cơ quan đơn vị và ngoài xã hội

– Tăng cường kiểm tra giám sát, tuyên dương, phê bình, khen thưởng kịp thời, đưa bình đẳng giới thành một tiêu chí để đánh giá thành tích của cá nhân và tập thể hàng năm.

Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến vấn đề Bình đẳng giới là gì? Mọi thắc mắc liên quan tới nội dung bài viết, quý vị có thể liên hệ chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng nhất.

Video liên quan

Chủ Đề