Các nhà trí thức nổi tiếng việt nam

Từ một thi nhân với tiếng thơ hùng tráng, chuyển lối rẽ sang nghiên cứu khoa học, Phạm Huy Thông thực sự là linh hồn của đề tài và của các hội nghị khoa học xã hội và nhân văn.

Bạn đang xem: Kể tên 3 nhà trí thức nổi tiếng mà em biết

Bạn đang xem: Kể tên 3 nhà trí thức nổi tiếng mà em biết

Bạn đang xem: Kể tên 3 nhà trí thức nổi tiếng mà em biết



Giáo sư - Viện sĩ Phạm Huy Thông - Ảnh: Gia đình cung cấp

Tiếng thơ hùng tráng

Tôi tìm đến ngôi nhà số 86 phố Hàng Bạc, Hà Nội. Di sản còn lại của một gia đình tư sản dân tộc yêu nước vẫn còn đây, nơi Phạm Huy Thông cất tiếng khóc chào đời rạng sáng ngày 20.11.1916. Ngôi nhà này đã là nơi Tiếng địch sông Ô ra đời, nơi Phạm Huy Thông viết Con voi già tặng cụ Phan Bội Châu; các tập thơ Tần Ngọc, Tây Thi và các kịch thơ: Tần Hồng Châu, Huyền Trân công chúa, Kinh Kha... đều được khai sinh tại ngôi nhà này.

Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã nhận định chưa bao giờ thi ca Việt Nam có những lời hùng tráng như trong tác phẩm của thơ Huy Thông: “Hơi văn mà đến thế thực đã đến bực phi thường. Anh hùng ca của Victor Hugo tưởng cũng chỉ thế. Giữa cái ẻo lả, cái ủy mị của những linh hồn đương chờ sa ngã, thơ Huy Thông đã ồ ạt đến như một luồng gió mạnh”.

 


“Và cho dù có thế nào đi nữa, GS Phạm Huy Thông mãi mãi sống trong lòng các thế hệ học trò của ông, như một học giả uyên bác có nhiều cống hiến cho khoa học, một thầy giáo nặng ân tình, một con người... “biết người, biết của”.



GS Lương Ninh - ĐHQG Hà Nội

Bất ngờ rẽ ngang sang khoa học, từ biệt nàng thơ, năm 21 tuổi Phạm Huy Thông đỗ tốt nghiệp cử nhân luật và sang Pháp du học. Sau hai năm học, tốt nghiệp cử nhân sử, địa tại Trường đại học Toulouse, năm 1939, Phạm Huy Thông đến Paris để tiếp tục theo chương trình trên đại học về sử, địa, luật, kinh tế chính trị học. Năm 26 tuổi, Phạm Huy Thông đỗ tiến sĩ luật học và 28 tuổi ông lại lấy thêm bằng thạc sĩ sử - địa. Năm 31 tuổi, TS Phạm Huy Thông đã được phong giáo sư, làm việc tại Trường Đông phương và giữ chức Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp.

Người thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tháng 4.1946, ông Phạm Văn Đồng, trên cương vị Phó chủ tịch Quốc hội, dẫn đầu “Phái đoàn thiện chí” sang Pháp. Trước khi đoàn lên đường, Chủ tịch Quân sự ủy viên hội Võ Nguyên Giáp đã giới thiệu với Phạm Văn Đồng về Phạm Huy Thông. Họ biết nhau từ những năm dạy trường tư thục tiến bộ Thăng Long [1937 - 1938] ở Hà Nội.

Trở sang lần thứ hai, để thương lượng với Chính phủ Pháp ở Hội nghị Fontainebleau, ông Phạm Văn Đồng đã đề nghị Phạm Huy Thông làm thư ký riêng cho Hồ Chủ tịch.

Chính trong thời gian vừa làm thư ký riêng của Hồ Chủ tịch vừa làm thư ký của hội nghị Fontainebleau; hằng ngày phải tranh luận với đại biểu của Pháp để thảo ra một thông báo chung của hội nghị cho báo chí; Phạm Huy Thông đã bị Hồ Chí Minh chinh phục. Trong hồi ký, ông viết: “Từ viết văn đến nhận thức, tôi đã học được nhiều. Tuy cần nói rõ, như mọi trí thức học dưới mái trường Pháp, tôi đâu dễ nghe ai khuyên nhủ! Nhưng với tình cảm sẵn có với Bác, với phấn khởi được sống bên Bác một thời gian, với cách nói năng ôn tồn và thấm sâu của Bác, tôi đã từng bước, từng bước sang một thế giới mới...”.

 
Bảy mươi tuổi, nhìn lại cuộc dấn thân phục vụ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám, Giáo sư - Viện sĩ Phạm Huy Thông tự hào:

“... Dấn thân lên con đường của Cách mạng tháng Tám, được Cách mạng tháng Tám in trong tâm hồn một dấu ấn không thể nào phai, tôi không hề tiếc gì hết khi nhìn lại con đường đã qua tuy con đường ấy khác hẳn con đường đã ước mơ. Như chiến sĩ cách mạng Pháp Gabriel Péri, tôi có thể nói: “Nếu phải hay được làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ lại đi con đường đã đi”.

Đặt những viên gạch đầu tiên

Sau khi được giải thoát khỏi nhà tù của chính quyền Sài Gòn, GS Phạm Huy Thông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường đại học Sư phạm vừa được thành lập năm 1956.

11 năm làm hiệu trưởng [1956 - 1967], lãnh đạo một nhà trường lớn, ông đã đưa Đại học Sư phạm thành đơn vị tiên tiến xuất sắc trong ngành giáo dục. Vào đầu những năm 1960, trường liên tục nhận được những phần thưởng cao quý của nhà nước: Huân chương Lao động hạng ba [1961], Huân chương Lao động hạng nhì [1962]…

Mặc dù bận rộn trong công tác quản lý, GS Phạm Huy Thông vẫn dành thời gian cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. PGS-TS Nghiêm Đình Vỳ, nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Sư phạm Hà Nội, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương, nhớ về người thầy của mình:

“Một trong những công lao lớn của GS Phạm Huy Thông không chỉ đối với ngành sư phạm mà cả giới nghiên cứu về lịch sử thế giới là việc chủ trì, tổ chức, hướng dẫn việc biên soạn một bộ giáo trình về lịch sử thế giới từ cổ đại đến hiện đại. Việc coi nhẹ nghiên cứu lịch sử thế giới nói chung, lịch sử khu vực nói riêng là một thiếu sót. GS Phạm Huy Thông đã nhận thấy thiếu sót này, nên đã tổ chức lực lượng nghiên cứu, biên soạn giáo trình lịch sử thế giới...

Có thể xem bộ giáo trình Lịch sử thế giới do GS Phạm Huy Thông tổ chức, hướng dẫn biên soạn là viên gạch đầu tiên đóng góp vào việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thế giới ở Việt Nam”.

Năm 1967, GS Phạm Huy Thông được giao nhiệm vụ xây dựng Viện Khảo cổ học và sau đó là Tạp chí Khảo cổ học ra đời do ông làm tổng biên tập. Là viện trưởng đầu tiên, ông đã có 20 năm làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học [1968-1988] cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.

GS-TS Hoàng Xuân Chinh - Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam, cho biết: “Trong thời gian ở Viện, GS Phạm Huy Thông có yêu cầu cao đối với cán bộ cũng như đối với bản thân mình. Bài viết của GS thường được sửa chữa nhiều lần, kể cả lúc đã lên khuôn. Đối với cán bộ, bất kể là cán bộ đại học hay phó tiến sĩ, không kể là bài tạp chí hay bản thông báo ngắn, đều được GS hướng dẫn sửa chữa hay tự tay GS sửa chữa. Chính nhờ vậy mà ông đã tạo nên được một phong cách làm việc nghiêm túc cho cán bộ khảo cổ học”.

Xem thêm: Dự Đoán Xổ Số Miền Bắc Ngày 29 Tháng 5, Soi Cầu Dự Đoán Xổ Số Miền Bắc Ngày 29/5/2021

Hơn 40 năm hoạt động, Giáo sư-Viện sĩ Phạm Huy Thông [1916-1988] đã giữ nhiều trọng trách: Hiệu trưởng Trường đại học Sư phạm Hà Nội, quyền Bí thư Đảng ủy Bộ Giáo dục, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện trưởng Viện Khảo cổ học, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông được bầu làm Viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học CHDC Đức [1987]. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 [năm 2000] dành cho cụm công trình nghiên cứu về khảo cổ học: Trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam, Hang Con Moong và Hùng Vương dựng nước.

Ít nhiều thụ hưởng nền giáo dục của Pháp xây dựng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20, nhiều học sinh đã trở thành trí thức lớn của dân tộc.

Kéo dài gần một thế kỷ, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam được đánh giá trái chiều. Năm 1905, Phan Bội Châu cho rằng Pháp "chỉ dạy viết văn Pháp, nói tiếng Pháp, tạm thời làm nô lệ cho Pháp". Song mặt tích cực ngoài ý muốn của Pháp là tạo ra tầng lớp tri thức có trình độ đại học, nắm vững khoa học, kỹ thuật tiên tiến.

Nhà bách khoa của thế kỷ 20 Đào Duy Anh

Đào Duy Anh [1904-1988] là nhà sử học, địa lý, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh ở Thanh Hóa, nguyên quán huyện Thanh Oai, Hà Tây [nay thuộc Hà Nội].

Năm 1923, ông tốt nghiệp Thành chung [trường Quốc học Huế] rồi ra dạy học trường Đồng Hới [Quảng Bình]. Ba năm sau, ông tham gia sáng lập báo Tiếng Dân cùng Huỳnh Thúc Kháng rồi gia nhập Việt Nam Cách mạng Đảng [sau là Đảng Tân Việt].

Vợ chồng giáo sư Đào Duy Anh. Ảnh tư liệu

Lĩnh vực khoa học đầu tiên mà Đào Duy Anh quan tâm là từ điển học. Ông lần lượt hoàn thành và xuất bản Hán - Việt từ điển [1932] và Pháp - Việt từ điển [1936]. Đây là công cụ tra cứu rất cần thiết cho nhiều thế hệ học sinh trung học, được ví như cầu nối giữa lớp người già theo Nho học và lớp người trẻ theo Tây học.

Gần 40 năm sau, ông cho ra đời bộ từ điển độc đáo, chuyên dụng Từ điển Truyện Kiều [1974]. Tuy không phải người biên soạn từ điển đầu tiên của Việt Nam, nhưng Đào Duy Anh đã đặt cơ sở cho nền từ điển học hiện đại.

Trong lĩnh vực sử học, năm 1938, tác phẩm Việt Nam văn hoá sử cương của ông cùng với Văn minh An Nam [la Civilization Annamite, 1944] của Nguyễn Văn Huyên đã đánh dấu và đặt nền tảng hình thành nền văn hóa học Việt Nam hiện đại trên tinh thần khoa học, dân tộc.

Một số tác phẩm tiêu biểu của ông trong lĩnh vực này như Khổng giáo phê bình tiểu luận [1938], Trung Hoa sử cương [1942], Khảo luận về Kim Vân Kiều [1943] được giới tri thức trong nước và nhiều học giả thế giới đón nhận, hoan nghênh.

Ông tự tích lũy kiến thức về nhiều ngành khoa học xã hội khác như Triết học, Dân tộc học, Xã hội học bằng phương pháp luận sử học và tư liệu lịch sử. Từ một người tốt nghiệp Thành chung, bằng ý chí tự học, Đào Duy Anh đã trở thành nhà bách khoa của thế kỷ.

Tôn Thất Tùng - bác sĩ nổi tiếng thế giới 

Giáo sư Tôn Thất Tùng [1912-1982] là bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh giải phẫu gan. Ông sinh năm 1912 tại Thanh Hóa và lớn lên ở Huế.

Xuất thân từ gia đình quan lại nhà Nguyễn nhưng ông không theo nghiệp học làm quan. Năm 1931, ông ra Hà Nội học tại trường Trung học Bảo Hộ, hai năm sau đó học trường Y khoa Hà Nội - thành viên của Viện Đại học Đông Dương với quan niệm nghề y là nghề "tự do", không phân biệt giai cấp.

Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng. Ảnh tư liệu

Một lần phát hiện gan của người bệnh có giun chui ở các đường mật, ông đã nảy ra ý tưởng dùng những lá gan bị nhiễm giun để phẫu tích cơ cấu của lá gan.

Liên tiếp những năm sau đó 1935-1939, chỉ bằng con dao nạo thô sơ, ông đã phẫu tích trên 200 lá gan của tử thi để nghiên cứu các mạch máu và vẽ lại thành sơ đồ đối chiếu. Trên cơ sở đó, ông đã viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa với nhan đề "Cách phân chia mạch máu của gan".

Bản luận án được đánh giá cao và trở thành tiền đề cho những công trình khoa học nổi tiếng của ông. Với bản luận án này, Tôn Thất Tùng đã được Đại học Tổng hợp Paris tặng huy chương bạc.

Khi Tôn Thất Tùng trở thành bác sĩ nội trú ở Bệnh viện Phủ Doãn [tiền thân của Bệnh viện Việt Đức ngày nay], sau nhiều lần cắt gan người chết, ông đề xuất với thầy hướng dẫn về phương pháp của mình. Phương pháp này sau đó được gửi Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris và bị giáo sư đầu ngành công kích dữ dội, vì ý tưởng của Tôn Thất Tùng quá mới.

Mãi đến năm 1952, tại hội nghị Phẫu thuật quốc tế ở Copenhaghen [Đan Mạch] phương pháp cắt gan có quy phạm của ông mới được thừa nhận. Tôn Thất Tùng được giới y học quốc tế chú ý và ca ngợi là "người cha của cắt gan có quy phạm".

Sau này, ông có nhiều cống hiến cho ngành y học Việt Nam trên cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại khoa [Đại học Y Hà Nội], Giám đốc Bệnh viện Việt - Đức, Thứ trưởng Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Giáo sư Hoàng Như Mai - Học giả hàng đầu trong nghiên cứu văn học

GS.NGND Hoàng Như Mai [1919-2013] quê gốc Hà Nội, sinh ra và lớn lên ở phủ Lạng Thương [tỉnh Bắc Ninh]. Ngày vào lớp đồng ấu [lớp 1 ngày nay], ông được một thầy giáo già truyền tình yêu văn chương, qua những bài giảng chữ Nho, chữ quốc ngữ và những bài Pháp văn.

Hồi 8-9 tuổi, có lần ông được người anh dẫn lên Hà Nội vào rạp chiếu bóng chơi, được tận mắt nghe câu thoại của nam diễn viên với người tình "Đôi mắt em xanh như nước biển Địa Trung Hải" bằng tiếng Pháp. Câu thoại đó cứ vấn vương mãi trong đầu cậu bé nhiều năm sau này.

Học xong tiểu học, ông lên Hà Nội vào trường Trung học Bảo Hộ [trường Bưởi] trong hệ thống giáo dục Pháp - Việt, được học chương trình văn học Pháp gồm nhiều tác gia lớn của thế kỷ 16-18 và các tác giả lãng mạn thế kỷ 19.

Cuốn tiểu thuyết gây ấn tượng mạnh ban đầu cho ông là Graziella của Lamartine, đặc biệt là bài thơ hoài niệm cuối sách Mối hận đầu tiên được Nguyễn Văn Vĩnh dịch ra tiếng Việt. Sáu bảy chục năm sau đó ông vẫn thuộc lòng nhiều đoạn trong tiểu thuyết này.

Giáo sư Hoàng Như Mai. Ảnh: Đại học Văn Hiến

Những năm học trường Bưởi cũng là thời kỳ phong trào Thơ Mới nở rộ nên thế hệ của Hoàng Như Mai đã tìm được những thi sĩ cho riêng mình. Ông khâm phục Xuân Diệu nhưng thích đọc nhất là Thế Lữ, J.Leiba Thái Can, Lưu Trọng Lư và sau này là Vũ Hoàng Chương, Trần Huyền Trân.

Tiếp đó, Hoàng Như Mai lần lượt theo học ở Đại học Y khoa và Đại học Luật khoa Đông Dương ở Hà Nội. Năm 1943, khi đang là sinh viên Đại học Luật, ông bắt đầu đứng trên bục giảng ở trường Trung học tư thục Đông Hải [Hải Dương].

Năm năm sau, ông được Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Bình mời làm hiệu trưởng trường Trung học Phan Thanh. Sau đó, ông lần lượt làm giảng viên, hiệu trưởng ở các trường Sư phạm Việt Bắc [1951], Sư phạm Trung cấp trung ương [1953], Đại học Tổng hợp Hà Nội [1959], Đại học Tổng hợp TP HCM [1980].

Ông để lại di sản nghiên cứu văn học khá đồ sộ. Bộ giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại [1945-1960] của Hoàng Như Mai có giá trị rất riêng, bởi đây là công trình đầu tiên mang tính đột phá, nghiên cứu về một chặng đường văn học còn nóng hổi tươi nguyên đối với thời kỳ đó.

Các tập chuyên luận, tiểu luận về thơ Thơ một thời, Bản sắc dân tộc trong thơ Hồ Chí Minh hay sân khấu Nhận định về cải lương", Trần Hữu Trang - soạn giả cải lương đến nay vẫn nguyên giá trị cho giới nghiên cứu.

Trong lĩnh vực sân khấu kịch nói, giáo sư Hoàng Như Mai cũng để lại dấu ấn với các tác phẩm nghiên cứu Tiếng trống Hà Nội, Dòng sông biên giới, Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu.

Ngoài ba trí thức trên, còn nhiều người trưởng thành từ nền giáo dục thời Pháp thuộc, như: giáo sư Hoàng Minh Giám [1904-1995]; giáo sư Nguyễn Lân [1906-2003]; giáo sư, viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn [1905-1993]; nhà nông học Lương Định Của [1920-1975]; giáo sư Toán học Nguyễn Cảnh Toàn [1926-2017]...

  • Giáo dục đại học của Pháp ở Việt Nam

Mạnh Tùng

Video liên quan

Chủ Đề