Cảm nghĩ về bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư

I. Mở bài

- Trần Quang Khải [1241-1294] là vị tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chông quân Nguyên - Mông ở đời Trần. Lịch sử ca ngợi ông là vị tướng tài, văn học ghi nhớ ông với những vần thơ sâu xa lí thú [Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chương loại chí].

- Bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư [Phò giá về kinh] là một trong 11 bài thơ còn lại của ông và cũng là tác phẩm có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Cuối năm 1284, quân Nguyên - Mông do Thoát Hoan cầm đầu ồ ạt tấn công nước ta lần thứ II. Trước sức mạnh của quân giặc, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông phải rời khỏi kinh đô đi lánh nạn. Nhưng chỉ mấy tháng sau, vào tháng 5 - 1285 [tháng 4 năm Ất Dậu], quân ta đã phản công bất ngờ, chiến thắng lớn ở trận Hàm Tử; tháng 7 - 1285 [tháng 6 năm Ất Dậu], ta lại thắng lớn ở Chương Dương. Kẻ thù thất bại hoàn toàn. - Sau chiến thắng, Trần Quang Khải là người hộ giá hai vua Trần trở về kinh đô. Trong không khí ngày khải hoàn, Trần Quang Khải đã cảm hứng làm bài thơ này.

2. Phân tích

2.1 Tựa đề

- Tụng giá hoàn kinh sư nghĩa là Phò giá về kinh. Tựa đề nêu lên một sự kiện lịch sử, nhưng sâu xa còn là nguyên cớ gợi cảm hứng cho nhà thơ. Bởi lẽ, sự kiện đưa vua trở về kinh đô đánh dấu chiến thắng của quân ta, khẳng định đất nước ta sạch bóng quân thù, quê hương dã trở lại những ngày thanh bình. Mặt khác, tác giả còn là người góp một phần công sức vào niềm vui chiến thắng của toàn dân tộc. Vì thế, sự kiện lịch sử không là những con số vô cảm mà là một niềm thơ, niềm cảm xúc dạt dào.

2.2 Hai câu đầu - Hai câu thơ đầu nhắc lại chiến thắng có tính quyết định, trận Chương Dương và Hàm Tử. Hai địa danh vừa có ý nghĩa cụ thể về lịch sử, vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tượng trưng vì từ nay, hai địa danh này sẽ vang lên trong lòng người dân Việt Nam, trong lịch sử như một thời đại hào hùng. Hai thế kỉ sau, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tự hào nhắc lại:
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi ÔMã. Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
- Cách sắp xếp thứ tự hai địa danh có phần đặc biệt. Trận đánh Chương Dương xảy ra sau nhưng lại được Trần Quang Khải kể trước. Điều này phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhà thơ. Trận sau mới xảy ra, dường như còn nóng hổi, đang nức lòng mọi người, đặc biệt là tác giả, người có vai trò lớn trong chiến công này. - Âm điệu hai câu thơ khác nhau. Câu một với động từ mạnh Đoạt sáo nghĩa là cướp giáo, nhịp thơ nhanh gấp, mạnh mẽ, dứt khoát diễn tả thế trận chuyển hoá bất ngờ, mau lẹ, từ chỗ lùi bước đến đánh đuổi quân giặc, từ trường kì kháng chiến đến kháng chiến chớp nhoáng tiêu diệt kẻ thù. Câu hai với âm điệu lại nhẹ nhàng diễn tả việc bắt giặc, mà là bắt sống một cách dễ dàng. - Lời thơ ngắn gọn, chắc nịch, đanh thép, bày tỏ niềm tự hào về chiến thắng vẻ vang của dân tộc. 2.3 Hai câu sau - Nếu hai câu đầu kể về chiến công thì hai câu sau là lời kêu gọi nỗ lực xây dựng đất nước vững bền. Trần Quang Khải đã không dừng lại ở niềm vui chiến thắng, không nghĩ đến việc nghỉ ngơi, hưởng lạc. Ngay trong không khí chiến thắng, ông đã nghĩ đến kế sách lâu dài với một tinh thần trách nhiệm, nhìn xa trông rộng. - Ông quan niệm đất nước thái bình không chỉlà chấm dứt chiến tranh, thái bình còn phải là xây dựng đất nước mãi mãi vững bền, mang lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Mà muốn có thái bình, phải có sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân. Lời thơ như một lời tự nhủ, đồng thời bộc lộ niềm tin, niềm hi vọng vào sự bền vững muôn đời của đất nước. - Nếu hai câu thơ đầu ta bắt gặp vẻ đẹp oai hùng của một vị tướng thì hai câu thơ sau ta cảm nhận được nét đẹp trong trí tuệ và đạo đức của nhà thơ Trần Quang Khải.

III. Kết luận

- Bài thơ bày tỏ nỗi vui mừng, niềm hãnh diện tột độ của tác giả trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc, đồng thời khẳng định quyết tâm xây dựng đất nước ngàn thu.


- Làm nên chất thơ chính là cảm xúc tự hào, vui mừng về chiến công hiển hách của dân tộc, là hào khí của thời đại nhà Trần và niềm tin vào một nền thái bình vững chắc. Những cảm xúc ấy được ẩn chứa trong cách nói chắc nịch, ngắn gọn của thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, không hoa mĩ, cầu kì. Đây cũng là vẻ đẹp độc đáo của bài thơ mà tác giả là một vị tướng.

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.

Create an account

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu vài nét về tác giả Trần Quang Khải: Là người "văn võ song toàn", không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông - Nguyên mà còn là nhà thơ với những bài thơ đặc sắc
  • Giới thiệu vài nét về Phò giá về kinh [Tụng giá hòa kinh sư] và nêu vấn đề cần nghị luận: Tinh thần yêu nước

2. Thân bài

a. Hai câu thơ đầu

* Tinh thần yêu nước thể hiện trong niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi tác giả cất lên bài ca chiến thắng: "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" [Chương Dương... quân thù] 

  •  "đoạt sáo", "cầm Hồ": Hai cụm động từ mạnh mẽ, dứt khoát thể hiện hào khí nhà Trần và chiến thắng như chẻ tre của quân ta
  • Nhịp điệu câu thơ nhanh, dồn dập như mệnh lệnh trong quân đội
  • Phép liệt kê hai trận thắng, hai địa danh vinh quang 

=> Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranh

b. Hai câu thơ sau

* Tinh thần yêu nước biểu hiện qua khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lai: "Thái bình... giang san" [Thái bình... ngàn thu]

  • Nhịp thơ khoan thai như lời nhắn nhủ: Cần bắt tay vào xây dựng cơ đồ, bồi đắp non sông để mãi vững bền đến nghìn thu
  • "thái bình" vốn là mơ ước của bao người khi kẻ thù xâm lược chiếm đoạt đất đai quê nhà, nay mơ ước thái bình đã thành hiện thực, ta cần "tu trí lực" để làm cho "Vạn cổ thử giang san"

=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba

=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng

3. Kết bài

  • Khẳng định lại nội dung tư tưởng tác phẩm.
  • Nêu suy nghĩ, đánh giá của bản thân. 

Bài viết

Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải [1241-1294], con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc.

Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh [Tụng giá hoàn kinh sư] cũng đủ để thành một tên tuổi.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải : 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹp:

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm tử bắt quân thù.

Thái bình nên gắng sức.

Non nước ấy ngàn thu.

[Trần Trọng Kim dịch]

Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch.

Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng ca:

Chương Dương cướp giáo giặc,

Hàm Tử bắt quân thù.

Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi.

Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó.

Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khác:

Thái bình nên gắng sức,

Non nước ấy ngàn thu.

Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi [chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công], đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục!

Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết [tu trí lực] của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông.

Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời.

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát về tác giả Trần Quang Khải và tác phẩm Phò giá về kinh
  • Nêu cảm nhận khái quát về giá trị nội dung bài thơ

2. Thân bài

* Nêu hoàn cảnh ra đời tác phẩm: Năm 1285, sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô được giải phóng, Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long.

* Thể thơ: Ngũ ngôn tứ tuyệt cực ngắn gọn hàm súc để thể hiện niềm vui

* Cảm nhận khi đọc hai câu thơ đầu tiên: "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" [Chương Dương... bắt quân thù]

  • Giọng thơ: Sôi nổi, dứt khoát; cách ngắt nhịp: 2/3 => Giọng thơ của một võ tướng
  • Động từ mạnh "đoạt", "cầm" miêu tả chiến thắng oanh liệt của nhân dân với niềm tự hào bất tận
  • Cách liệt kê hai địa danh: Giúp ý thơ thêm hào hùng
  •  Phép đối của thơ ngũ ngôn tứ tuyệt: Chứa đầy hào khí chiến thắng

=> Lời thơ cất lên như một khúc khải hoàn

=> Lời tuyên bố đanh thép: Chiến thắng của nhân dân Đại Việt là do sức mạnh của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn

* Cảm nhận về hai câu thơ cuối: "Thái bình tu trí lực... giang san" [Thái bình... nghìn thu]

  • Sự chuyển mạch đột ngột nhưng hợp lí của bài thơ: Hai câu đầu nói về hào khí chiến thắng đến hai câu sau nói về thời kì hòa bình và nhiệm vụ mới của dân tộc
  • Khát vọng mạnh mẽ của nhà thơ: Xây dựng quốc gia hùng mạnh, no ấm, tồn tại tới ngàn năm
  • Giọng điệu hai câu sau: Trầm lắng suy tư

=> Lời nhắn nhủ tràn đầy niềm tin, sự hi vọng về tương lai đất nước đẹp giàu, vững mạnh

=> Trí tuệ uyên thâm, tầm nhìn xa trông rộng của một người cầm quân và lãnh đạo.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề và nêu cảm xúc, suy nghĩ của bản thân. 

Bài viết

Những trang lịch sử chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước của dân tộc Việt Nam thật oanh liệt, hào hùng. Người viết nên những trang sử vẻ vang ấy chính là bao vị anh hùng và nhân dân các thời đại, mà ở thời đại nào, lòng yêu nước nơi họ cũng tỏa sáng rực rỡ. Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải là một trong những vị anh hùng như thế, ông đã đem trọn tài năng, phẩm chất, khí tiết để dâng hiến cho non sông, góp phần đánh tan quân giặc xâm lược Mông - Nguyên mạnh như hổ đói, khi chúng vào giày xéo mảnh đất quê hương. Bài thơ "Phò giá về kinh" của Trần quang Khải đã thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng của ông và một khát vọng mạnh mẽ muốn xây dựng quê hương giàu mạnh đến ngàn thu:

Đoạt sáo Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san.

Bài thơ trên đây có một hoàn cảnh ra đời khá đặc biệt, mà muốn hiểu hết giá trị của nó, ta cần nhắc tới: Đó là năm 1285, sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô được giải phóng. Trong niềm vui chiến thắng rộn ràng, Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long. Hào khí Đông A của thời đại nhà Trần ở lúc thịnh nhất, Trần Quang Khải đã tràn trề cảm xúc tự hào và tin tưởng khi sáng tác bài thơ này. Nhà thơ chọn thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cực kỳ ngắn gọn, hàm súc để thể hiện niềm vui mạnh mẽ trong lòng ông.

Cảm nhận đầu tiên khi đọc bài thơ là giọng thơ sôi nổi, dứt khoát với cách ngắt nhịp 2/3, khiến ta thấy ngay đây là giọng thơ của một nhà thơ võ tướng. Hai động từ mạnh "đoạt" và cầm" miêu tả chiến thắng oanh liệt của quân dân ta với niềm tự hào bất tận, vì chính nhà thơ là người giữ vai trò lãnh đạo hai trận chiến khốc liệt mà vinh quang ở Chương Dương và Hàm Tử. Cách liệt kê hai địa danh khiến cho ý thơ thêm hào hùng. Phép đối của thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thật chuẩn, ngay cả ở phần dịch thơ cũng chứa đầy hào khí:

Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù.

Người nam nhi thời Trần đã lập nên nghiệp lớn, dẫn đầu binh sĩ đánh bại cả một đoàn quân bạo tàn từng nghênh ngang cho rằng gót ngựa chúng đi tới đâu thì ngay cả cỏ cũng không mọc nổi. Thế nhưng qua lời tuyên bố ngắn gọn như trên, vị anh hùng thời đại nhà Trần đã tuyên bố về chiến thắng của nhân dân Đại Việt trước bọn chúng. Đó là do sức mạnh vô địch của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của tướng sĩ trong cuộc chiến đấu cam go. Nhịp điệu nhanh mạnh của câu thơ thể hiện đúng không khí chiến thắng. Và lời thơ cất lên như một khúc khải hoàn ca làm nức lòng người. Có thể nói,nhà thơ đã viết lên lời ký sự ngắn gọn mà nóng bỏng ngay trong phút giây đáng tự hào nhất của thời đại Đông A.

Chiến thắng giặc thù rồi, khát vọng của cả dân tộc và của triều đình đâu dừng lại. Nhà thơ nói lên khát vọng ấy:

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san.

Tức: Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu

Hai câu thơ đầu nói về chiến tranh, thì hai câu thơ cuối chuyển ngay sang nói về thời kỳ hòa bình và nhiệm vụ mới của dân tộc. Đây là sự chuyển mạch đột ngột nhưng hợp lý của bái thơ, thế là đã chấm dứt những ngày tháng "ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa" [Trần Quốc Tuấn], nhưng quân dân không thể ngủ quên trên chiến thắng. Khát vọng mạnh mẽ nhất của nhà thơ, cũng là của dân tộc là làm sao dựng xây lên được một quốc gia hùng mạnh,no ấm, tồn tại tới ngàn năm. Giọng thơ hai câu sau không còn nhanh mạnh, dồn dập như ở hai câu đầu, mà chuyển sang trầm lắng suy tư, như gói trọn bao chiêm nghiệm, khao khát ấp ủ của người anh hùng yêu nước trong một giai đoạn mới. Đó cũng là lời nhắn nhủ tràn đầy niềm tin và hi vọng về tương lai đất nước sẽ đẹp giàu, mạnh mẽ, không kẻ thù ngoại xâm nào dám bén mảng đến. Ta thấy ở đây không chỉ là niềm tin và khát vọng, mà còn là trí tuệ uyên thâm, tầm nhìn xa rộng của một người cầm quân đánh giặc và lãnh đạo nhân dân xây dựng quê hương.

Bài thơ tứ tuyệt thật hàm súc và độc đáo, cảm xúc cô đọng, dồn nén, với từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào bất tận và khát vọng vĩ đại dựng xây giang san. Còn nguyên vẹn trong bài thơ là chí khí của một người anh hùng vĩ đại thời Trần, cho đến ngày hôm nay, sự cao cả của tấm lòng yêu quê hương đất nước và mơ ước đẹp của nhà thơ vẫn là điều mà mỗi con người Việt Nam đang bền bỉ thực hiện, để "non nước ấy ngàn thu" vững bền và ngày một phát triển.

Dàn ý

1. Mở bài

Trần Quang Khải đã viết nên những vần thơ thép, hùng hồn, xúc động trong "Phò giá về kinh" gây ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

2. Thân bài

Hai câu đầu: Những chiến công hào hùng của quân đội nhà Trần:

  • Địa danh: Chương Dương, Hàm Tử: Nơi diễn ra những cuộc chiến ác liệt và dân ta giành thắng lợi.
  • Hành động: Cướp giáo, bắt: sự chủ động đầy dũng mãnh, oai phong
  • Nghệ thuật: Đảo ngữ: nhấn mạnh ý
  • Không khí sục sôi, dũng mãnh, tạo khí thế hào hùng

Hai câu cuối: Khát vọng đất nước thái bình

  • Nhiệm vụ: Xây dựng đất nước, luyện trí và lực
  • Mong ước: Giang sơn muôn đời yên ấm

=> Lời dặn dò gửi gắm con cháu đời sau

3. Kết bài

  • Đọc bài thơ em thấy mình thật may mắn khi được sống trong hoà bình hôm nay, những mong ước, nhắn nhủ của người anh hùng Trần Quang Khải đang ngày được thế hệ sau tiếp thu, nêu cao tinh thần quyết tâm thực hiện.

Bài viết

Trận chiến Mông-Nguyên thắng lợi, quân dân đất nước mừng rỡ trước chiến công hiển hách của mình. Sức mạnh của quân giặc cũng phải chịu đầu hàng trước khí thế dùng mạnh và tinh thần quật cường chiến đấu của quân ta. Nỗi xúc động và niềm tự hào khôn nguôi còn mãi trong trái tim mỗi người lúc ấy. Trước sự kiện ấy, Trần Quang Khải đã viết nên những vần thơ thép, hùng hồn "Phò giá về kinh":

" Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm tử bắt quân thù

Thái bình tu trí lực

Non nước ấy ngàn thu"

Hai câu đầu tác giả đã tái hiện lại những chiến công hào hùng của quân đội nhà Trần. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, hai nơi diễn ra trận đánh được nhấn mạnh thể hiện rõ niềm tự hào lớn lao của tác giả. Những động từ mạnh kết hợp với danh từ như "cướp giáo", "bắt quân thù" cho thấy sự chủ động và sức mạnh của quân ta trên mọi trận chiến. Trận Chương Dương tuy diễn ra sau nhưng được liệt kê trước như một sự sắp đặt có ý đồ của tác giả. Đang sống trong niềm hứng khởi của chiến nhưng vẫn không quên những ngày hào hùng, sung sướng trong thắng lợi năm xưa. Hào khí chiến đấu mạnh mẽ tiêu biểu cho hào khí của một thời đại- hào khí Đông A. Lời thơ hùng hồn, tự hào, ta như hình dung được trước mắt mình khung cảnh chiến đấu nơi trận chiến oanh liệt ấy.

" Thái bình tu trí lực

Non nước ấy ngàn thu"

Sau khi đánh đuổi quân giặc, nhân dân được tự do, yên ấm. Song, để có được hoà bình ấy phải đánh đổi bao máu và nước mắt, bao người phải hy sinh thân mình nơi chiến trận, bởi vậy mà cần phải ý thức được công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Không nên ngủ quên trên chiến thắng, hãy gắng sức mình, rèn luyện quân đội, xây dựng lực lượng vững mạnh, trí và lực cùng nhau cộng tác để gây dựng cơ đồ, đất nước mới được thái bình, thịnh trị:

"Non nước ấy ngàn thu"

Đó là trách nhiệm của mỗi người và cũng là lời gửi gắm của vị tướng sĩ tới muôn dân, muôn người lúc bấy giờ và cả những thế hệ sau. Đất nước muôn ngàn năm tồn tại vững bền phải là sự hợp lực, quyết tâm cao độ, gắng sức kiên trì. Hai câu thơ cuối thể hiện trí tuệ anh minh và tầm nhìn chiến lược của người anh hùng yêu nước. Yêu nước không chỉ có đấu tranh, yêu nước còn cần phải xây dựng phát triển nước nhà ngày một giàu mạnh hơn để nhân dân ngàn năm mãi được sống trong hoà bình, tự do. Vận mệnh đất nước luôn nằm trong tay ta, do ta quyết định, được hay mất, tồn tại hay không tồn tại đều từ sự nỗ lực, ý thức của nhân dân.

Bài thơ ngũ ngôn vô cùng cô đọng, hàm súc, lời ít ý nhiều tạo nên ấn tượng mạnh. Những chiêm nghiệm được đưa ra sau những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc như một sự đúc rút thực tiễn đầy khách quan, từ đó, tạo niềm tin và thúc giục mọi người hành động, quyết tâm cao.

Đọc bài thơ , em thấy mình thật may mắn khi được sống trong hoà bình hôm nay, những mong ước, nhắn nhủ của người anh hùng Trần Quang Khải đang ngày được thế hệ sau tiếp thu, nêu cao tinh thần quyết tâm thực hiện. Em thầm hứa sẽ cố gắng học thật giỏi, luyện sức, luyện tài, trau dồi đạo đức thật tốt để sau này có thể cống hiến thật nhiều cho đất nước thân yêu.

Video liên quan

Chủ Đề