Có nên bỏ Tiên học lễ, hậu học văn

  • Bài bình luận của blogger Viết Từ Sài Gòn
    2021-11-25

Mấy bữa nay trên các trang mạng xã hội râm rang câu chuyện Giáo sư Trần Ngọc Thêm, Hiệu trưởng đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trong một tham luận bàn về văn hóa, giáo dục, rằng nên bỏ Tiên Học Lễ Hậu Học Văn trong giáo dục nhằm phát huy tính sáng tạo cá nhân [độc sáng]. Điều này tạo ra hai luồng dư luận trái chiều, một bên đồng thuận bỏ, một bên phản đối bỏ. Như vậy, rốt cuộc, bỏ là tốt hay không bỏ là tốt? Và nếu bỏ thì bỏ hẳn hay thay thế?

Trước nhất, muốn bỏ hay không bỏ, có lẽ phải đặt ra câu hỏi: Mệnh đề Tiên Học Lễ Hậu Học Văn là gì? Nó có từ bao giờ? Mức độ chi phối, ảnh hưởng của nó với giáo dục Việt ra sao? Thực ra, cho đến lúc này, không ai dám khẳng định câu này là của Khống Tử mặc dù trong trước tác của ông đặt nặng vấn đề Lễ, bởi Lễ giúp cho con người thấu cảm được lẽ huyền vi Trời Đất, thấy được ý nghĩa tồn tại, định vị được chỗ đứng của mình trong gia đình, trước xã hội và có cách đối nhân xử thế phải mực. Ngoài ra, vì lý do chính trị, Khổng Tử đã nâng Lễ lên thành một loại nghi thức cúng kính, tôn thờ trời đất quỉ thần, các bậc tiên vương, vua chúa, quan lại… Nghĩa là một phần, Lễ giúp cho con người biết khiêm nhường, khoan hòa. Nhưng phần khác, Lễ khiến cho con người trở nên mê tín và tôi đòi chính trị.

Hậu học văn, thời Khổng Tử thì không có các môn hình học, đại số, sinh học, vật lý, hóa học, kĩ thuật nông nghiệp, địa lý… Nhìn chung, các môn tự nhiên trên không có trong nền giáo dục Nho Giáo, ngoại trừ môn Số [trong Nho, Y, Lý, Số nhằm dạy người ta hiểu về bói toán, hiểu về chữa bệnh nhưng cũng chỉ là kinh nghiệm thô sơ, Dịch số thời đó là phương toán Hà Đồ, Lạc Thư na ná tích hợp thô sơ, nó không được dạy trong các trường Khổng Nho mà lại dạy ở các thầy chiêm tinh, địa lý, nó là môn nghiên cứu riêng của các nhà thuật sĩ…] và ngay cả các môn xã hội thời đó cũng còn ở mức tầm chương trích cú như học viết chữ, học thuộc lòng các bản kinh của người xưa, xem đó là kinh điển bất di bất dịch.

Nhìn chung, cái sự học lấy Tiên Học Lễ Hậu Học Văn của thời xưa chỉ dừng ở mức biết Lễ để mà sợ Trời Đất, sợ quân vương, thờ nhà vua, vua bảo chết thì chết. Biết văn để tranh tài ra làm quan, cũng để thờ vua, để ca tụng nhà vua. Trong ý nghĩa và công dụng này, thì đương nhiên biết Lễ trước sẽ tốt hơn là biết Văn trước. Biết Lễ trước sẽ dễ thăng tiến và có cơ hội tồn tại trong chốn quan trường cao hơn biết văn trước. Biết lễ trước khỏi lo chết, thấu hiểu vị trí và mạng sống của mình trước nhà vua. Thời đó, với học thuật như vậy, chính trị như vậy, cái câu Tiên Học Lễ Hậu Học Văn là một chân lý, là mệnh đề có tính thức thời của kẻ làm quan.

Nhưng, đến thời hiện đại, tại sao người ta vẫn dùng mệnh đề này trong triết lý giáo dục? Bởi chữ Lễ và chữ Văn của thời đại tân học, tức chữ quốc ngữ đã thịnh hành lại mang nội hàm rộng hơn, chữ Lễ của thời này vừa mang ý nghĩa tôn thờ trời đất, nhà vua, tiền nhân, lại vừa mang ý nghĩa tôn thờ thầy cô, cha mẹ và đặt trọng tâm gia đình, cha mẹ lên cao nhất. Nghĩa là chữ Lễ của tân học đã có một bước cách mạng, nó đi từ kiếp nô lệ dưới thời phong kiến sang kiếp tự thân vận động của thời hậu phong kiến. Và nó cũng là phần dạy người ta cách đối nhân xử thế trong xã hội mới. Chữ Văn của thời tân học bao gồm những môn học mới như toán học phương tây, sinh học, hóa học, vật lý, địa lý… Trên tình thần này, mệnh đề Tiên Học Lễ Hậu Học Văn phải được hiểu là trước nhất phải học cách ứng xử của xã hội loài người, học nghi thức làm người, học đạo đức, hiểu phẩm hạnh, nhân cách là thế nào và trau dồi đạo đức để làm người, thứ đến mới học tri thức nhân loại để tạo cho mình kĩ năng làm việc, khả năng cống hiến…

Đó là tinh thần của Lễ và Văn thời đại mới, nhìn chung hoàn toàn hợp lý, không có dáng dấp của Khổng Tử chi phối trong tinh thần này mặc dù nó có căn nguyên Khổng Nho. Đến giáo dục xã hội chủ nghĩa, chữ Lễ và chữ Văn lại được hiểu theo nghĩa khác và định theo hướng khác. Tuy nhiên, một đất nước có ngàn năm nô lệ giặc Tàu, muốn bứt thoát ra khỏi căn phận nô lệ, người ta buộc phải bứt thoát từ căn gốc, cội nguồn. Đây là vấn đề đáng bàn mà Giáo sư Trần Ngọc Thêm đang bỏ ngỏ [thiết nghĩ lý do bỏ ngõ này rất nhạy cảm và dễ hiểu trong tình thế của ông – một đảng viên Cộng sản, một lãnh đạo trong ngành giáo dục, và đương nhiên là một chân trong hội đồng nhân dân thành phố]. Chính sự bỏ ngỏ, không nêu được mệnh đề mới, mệnh đề thay thế mà còn nhấn mạnh yếu tố độc sáng của mỗi trí thức, điều này cũng đồng nghĩa với bỏ hẳn mệnh đề cũ và không cần mệnh đề tương đương. Như vậy, nghĩa là khuynh hướng bỏ hẳn cao hơn khuynh hướng thay thế, không có dấu hiệu thay thế.

Về phần mệnh đề Tiên Học Lễ Hậu Học Văn, cho đến lúc này, Việt Nam hầu như không có triết lý giáo dục, mệnh đề Tiên Học Lễ Hậu Học Văn đã bị biến thành câu cổ động, thành phương châm, hoặc giả là khẩu hiệu, nó trở nên trống rỗng, khô khan nên việc bỏ đi hay giữ lại, không phải là chuyện đáng nói. Mà chuyện đáng nói ở đây là điều gì đã khiến một mệnh đề triết học trong giáo dục đã bị biến tướng thành câu khẩu hiệu? Và hơn hết, giả sử nó còn sức chi phối, trong cái giá trị cổ động của nó, thì Lễ ở đây như thế nào, Văn ở đây như thế nào?

Hình minh hoạ: Học sinh chào cờ ở một trường tiểu học ở Hà Nội hôm 5/9/2016. AFP

Xin thưa, trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, Lễ, phải hiểu rằng ngay từ trứng nước, chập chững bước vào mẫu giáo, người ta đã dạy cái Lễ kính Bác, yêu Bác, tôn thờ Bác. Cụ thể, Bác ở đây là Hồ Chí Minh. Ngoài ra, thì yêu Đảng, ghi nhớ công ơn Đảng, tôn thờ Đảng… Lớn lên, cái Lễ này còn nặng nề hơn, nó nặng nề đến độ một người có chữ, làm giáo viên, đôi khi phải phó thác phẩm hạnh, thân xác của mình cho người của Đảng. Nói như vậy để hiểu rằng chữ Lễ trong giáo dục xã hội chủ nghĩa nhắm đến cái gì. Và chữ Văn trong giáo dục xã hội chủ nghĩa thì sao? Đó là một thứ sản phẩm được mua đi bán lại giữa các thế hệ, thế hệ trước mua được cái chữ, bán lại cho thế hệ sau, người khôn ranh thì bán được nhiều tiền, kẻ hiền ngu thì bán không được hoặc bán được ít tiền. Luật chơi giáo dục, [có lẽ phải dùng chữ “luật chơi” ở đây mới đúng!] là con mạnh được con yếu thua. Và người nào càng biết Lễ thì càng lên cao.

Chính vì chữ Lễ đã bị đánh tráo ngay từ trứng nước nên nền giáo dục trở nên thối nát, u ám, bệ rạc và mục rã. Nếu như bỏ câu khẩu hiệu Tiên Học Lễ Hậu Học Văn trong giáo dục xã hội chủ nghĩa thì cũng nên lắm. Nhưng, trong nền giáo dục này, số đông dụng câu khẩu hiệu theo hướng trên, cũng có một số không nhiều sử dụng theo hướng mệnh đề triết học và hướng con người đến chỗ nhân bản, tôn trọng phẩm hạnh và đạo đức… Nhưng, đây chỉ là con số nhỏ và mức độ ảnh hưởng của họ, như đã thấy, hiếm hoi, rất hiếm hoi tín hiệu xã hội bình an, thiện lương. Và một xã hội mà người ta luôn nắm chớp cơ hội, sẵn sàng đạp lên nhau mà sống, sẵn sàng lên giường với quan chức để tiến thân, sẵn sàng đấu tố đồng môn, đồng liêu, sẵn sàng đoạt mạng của người thân vì một thứ tham vọng nào đó… có tất, thì có nên giữ câu khẩu hiệu này lại?!

Khi một thứ khẩu hiệu trở nên khô cứng và rỗng tuếch, một phương châm giáo dục vừa hình thức vừa không thật, thì liệu nó có nên tồn tại? Hơn nữa, sự tồn tại của nó lại mang dáng dấp Khổng Nho?! Nhưng, điều này càng nguy hiểm gấp bội lần nếu như bỏ nó đi mà không có mệnh đề thay thế. Bởi khi trong một xã hội có nền nếp, có căn cơ, thì tính độc sáng sẽ phát huy được khía cạnh thiện lương của nó. Ngược lại, trong một xã hội mà nền giáo dục giống như một cái lẩu hầm bà lằng các loại xôi thịt, rau cải, xương xẩu, gia vị và độc dược… loạn cào cào, nếu phát huy tính độc sáng, chắc chắn cơ hội cho cái ác sẽ rất cao, và khi cái ác có cơ hội độc sáng, sẽ khó mà lường được chuyện gì!

Giá như ngay từ đầu, ông Trần Ngọc Thêm đề xuất thay đổi mệnh đề hoặc Việt hóa mệnh đề Tiên Học Lễ Hậu Học Văn bằng một mệnh đề mới, có tính Việt [Ví dụ: Học Làm Người Trước, Học Làm Trí Thức Sau hoặc Học Người Rồi Học Khoa Học… chẳng hạn!] thì câu chuyện lại khác. Bởi chí ít, nền giáo dục vốn dĩ không có cái lõi triết lý [đừng xem các nguyên tắc, tôn chỉ và định hướng giáo dục xã hội chủ nghĩa là triết lý giáo dục, vì nó không phải vậy!] thì rất cần một hệ thống triết lý giáo dục hẳn hoi, sau đó là hành động giáo dục thích ứng.

Chưa bao giờ nền giáo dục này cần cứu như bây giờ, và khi cái xấu, điều tệ hại đã ngấm vào cơ địa giáo dục, thì việc để nó độc sáng là một tai họa!

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Đề xuất của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm về việc nên bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong các nhà trường hiện nay đang nhận được nhiều ý kiến tranh luận.

Nói về quan điểm bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, GS.TS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội bày tỏ quan điểm: “Tôi cho rằng, “Tiên học lễ, hậu học văn” không bao giờ lạc hậu. Câu nói này nhấn mạnh về việc dạy chữ và dạy người, xưa nay đây đều là nguyên lý không chỉ ở nước ta mà cả thế giới đều hướng tới và nhất thiết phải có trong giáo dục. Trong lý thuyết giáo dục hiện đại, thông qua dạy chữ để dạy người và trong chương trình GDPT mới có nhấn mạnh đến mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất của người học, trong đó, phẩm chất chính là dạy học sinh biết về “lễ”. Không chỉ Việt Nam và các nước khác đều hướng tới phát triển con người có tài, có đức, đức ở đây chính là phẩm chất, tài là khả năng, năng lực. Đây là 2 yếu tố bắt buộc phải có và không thể tách rời”.

GS.TS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, 

GS.TS Đinh Quang Báo cũng cho rằng, không nên đem chữ “lễ” của Nho giáo đặt vào xã hội ngày nay. Chữ “lễ” của giáo dục hiện đại được hiểu là đạo đức, ứng xử trong xã hội, không chỉ là ứng xử  giữa con người với con người mà còn là ứng xử của con người với thiên nhiên, môi trường xung quanh. Chương trình giáo dục phổ thông mới đưa ra 5 phẩm chất và 10 năng lực cần đạt với học sinh, những thành tố đó câu thành chữ “lễ” trong nhà trường hiện nay.

Theo nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, để giáo dục thay đổi, tạo ra những con người sáng tạo, có tư duy phản biện, độc lập, vấn đề cốt lõi không nằm ở khẩu ngữ, mà ở chính phương pháp giảng dạy: “Người thầy giáo tồi là người dạy chân lý, người thầy giáo giỏi là người dạy học sinh cách tìm ra chân lý. Giáo dục hiện đại cần hướng đến dạy học sinh tìm ra chân lý của tự nhiên, của hiện thực khách quan, chân lý trong ứng xử với các mối quan hệ giữa con người với nhau và con người với thiên nhiên. Trụ cột của trường phổ thông là dạy học sinh cách làm người. Tôi không phê phán, nhưng cách giải thích của GS Thêm tôi cho rằng chưa đúng khi đưa những quan niệm xưa vào xã hội ngày nay”.

PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT cũng không đồng tình với đề xuất bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong các nhà trường. Theo PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chữ “lễ” – đạo đức vẫn là gốc rễ, cơ bản trong gia đình, nhà trường hay toàn xã hội.

Theo PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, quan niệm chữ “lễ” theo Nho giáo tức bề trên [ông bà, cha mẹ, thầy cô] nói người dưới [con cái, học trò] phải nghe răm rắp nếu áp dụng vào thực tế hiện nay không còn đúng, mà nên hiểu chữ “lễ” là đạo đức con người, không nên quy về lễ giáo phong kiến.

 “Trong xã hội ngày nay, triết lý giáo dục của nhiều gia đình trước tiên vẫn dạy con biết hiếu nghĩa, sống có đạo đức, dù giỏi đến mấy nhưng thiếu đi cái đức cũng không thể chấp nhận. Bất kỳ thời đại nào, khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn hoàn toàn đúng, nên không cần loại bỏ”, PGS.TS Trần Xuân Nhĩ nói.

Theo PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, để đổi mới giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo, tư duy phản biện của học trò trước tiên cần thay đổi phương pháp giáo dục, mỗi thầy cô cần tìm tòi, sáng tạo để tăng cường tư duy phản biện của học sinh, ngoài ra vẫn cần chú trọng giáo dục đạo đức, dạy trẻ trước hết cần biết làm người.

Trước đó, bài viết trong kỷ yếu Hội thảo giáo dục 2021 với chủ đề “Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức ngày 21/11, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm có đưa ra quan điểm nên bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong nhà trường.

Trong bài viết của mình, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng, để có xã hội phát triển thì điều quan trọng là cần phải có con người sáng tạo, mà để có con người sáng tạo thì trước hết phải có con người chủ động.

Để có con người chủ động, cần loại trừ tính thụ động ở người dưới [học trò, con cái] và tính áp đặt ở người trên [thầy cô, cha mẹ]. Cần bắt đầu từ việc thay đổi quan niệm không sử dụng những cách biểu đạt mang tính thụ động như “con ngoan trò giỏi”, ngoan theo nghĩa dễ bảo, vâng lời, giỏi theo nghĩa thuộc bài…

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cũng nói thêm rằng: “Để có con người sáng tạo, cần thực hiện dân chủ trong giáo dục, cần thay đổi quan niệm về người thầy từ truyền thụ kiến thức sang hướng dẫn người học sáng tạo và tự chịu trách nhiệm về sự sáng tạo của mình. Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo, chống việc nhồi nhét kiến thức, chống việc học thuộc lòng, thay đổi quan niệm về cách biên soạn sách giáo khoa, cách ra đề thi kèm theo đáp áp, chấm dứt cách học bài theo mẫu. Chừng nào còn đề cao chữ lễ để ràng buộc người học, còn đề cao quá mức vai trò của người thầy, của đáp án thì tư duy phản biện sẽ không thể phát triển, không thể có xã hội phát triển”./.

Video liên quan

Chủ Đề