Điều em muốn biệt về cuộc đời tình cách và lối sống của Hồ Chí Minh

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh

27/10/2020 | 08:58

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc [UNESCO] đã tôn vinh Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam".

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.

Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911

Chủ tịch Hồ Chí Minh [tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc]. Người sinh ngày 19/05/1890, tại quê mẹ là làng Hoàng Trù [thường gọi là làng Trùa] huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An [nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An]. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan. Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, ngay từ thuở nhỏ đã tiếp thu được truyền thống yêu nước, lòng nhân ái từ gia đình và quê hương đất nước. Trong thời gian 10 năm sống ở Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, Người tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, với nền văn hóa mới và những bàn luận về các phong trào chống Pháp của các sĩ phu yêu nước.

Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, Người đã chứng kiến sự đối lập giữa cuộc sống lao động nghèo khổ của nhân dân với cảnh sống xa hoa, phè phỡn của bọn thực dân Pháp. Người đã thấy được những cuộc biểu tình chống sưu thuế của nông dân bị đàn áp dã man và sự thất bại của các phong trào yêu nước. Theo Người, muốn cứu nước phải tìm ra một con đường cách mạng mới. Có thể nói, tình yêu quê hương, đất nước và gia đình đã hình thành nên người thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng yêu nước, có hoài bão cứu nước cứu dân và thấu hiểu được sức mạnh của ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Với một ý chí nghị lực phi thường, Người đã quyết tâm tìm cách sang Pháp và các nước phương Tây, Người khẳng định: "Tôi muốn ra nước ngoài xem, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta". Người cho rằng dân tộc Việt Nam đang là một dân tộc mất quyền độc lập và nhiệm vụ của những người Việt Nam yêu nước là phải đấu tranh giành lại quyền độc lập.

Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920

Để thực hiện hoài bão của mình, ngày 05/06/1911, Người lên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn [nay là thành phố Hồ Chí Minh] rời Tổ quốc đi sang Pháp. Người vừa lao động để kiếm sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Khi trả lời phỏng vấn một nhà báo Nga, Người nói: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy" [1]. Khi được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, Người nhận ra rằng những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những bọn thực dân Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1911 đến năm 1917, Người đã đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ đã tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân và những tội ác, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân. Người cho rằng nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp công nhân, đều bị bóc lột có thể là bạn của nhau, còn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động. Năm 1917, Người tham gia phong trào công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.

Năm 1919, Người tham gia "Hội những người Việt Nam yêu nước" vào Đảng Xã hội Pháp- đảng của giai cấp công nhân Pháp, theo Người đây là tổ chức theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Người đã cùng với một số nhà yêu nước Việt Nam thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam lấy tên Nguyễn Ái Quốc gửi Hội nghị Vécxây đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính nghĩa đầu tiên của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc. Người khẳng định các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức của bản thân mình, Người viết: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình" [2].

Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin trên báo L'Humanité [Nhân Đạo]. Khi đọc Luận cương của Lênin, Người hiểu hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản, về cách mạng vô sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"[3]. Từ bản Luận cương của Lênin, Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, trong đó có cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin, từ một người Việt Nam yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, một sự chuyển biến về chất, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930

Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp, Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ [Le Paria] bằng tiếng Pháp vào năm 1922. Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra mục đích của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người. Trong thời gian hoạt động ở Quốc tế Cộng sản, Người chỉ ra tình cảnh của giai cấp công nhân, nông dân nghèo ở các nước thuộc địa đang chết dần vì đói rét, bệnh tật và kêu gọi Quốc tế Cộng sản giúp đỡ họ.

Năm 1925, Người đã viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, nhằm tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu rõ nỗi thống khổ và sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa. Tại Quảng Châu, Nguời thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt Nam, ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận cách mạng cho những người yêu nước. Các bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được tập hợp in thành cuốn Đường Cách mệnh [1927] đề cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam sau này. Ngoài ra, Người còn viết rất nhiều tác phẩm và nhiều bài trên báo Việt Nam độc lập, với nội dung ca ngợi truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, quật cường của dân tộc, kêu gọi các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hội, đoàn thể cứu quốc, kêu gọi các đảng cộng sản ở chính quốc phải giúp đỡ phong trào giải phóng ở thuộc địa. Thông qua báo chí và các hoạt động thực tiễn, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; Người đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần dân tộc, hướng dẫn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang góp phần tạo ra một cao trào cứu nước mạnh mẽ để đón thời cơ, tiến tới tổng khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị, Người khẳng định: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi"[4]. Người chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải có đảng lãnh đạo, có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt. Năm 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập ra một Đảng Cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc dự thảo, các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bản Cương lĩnh chính trị thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp-dân tộc- quốc tế về đường lối cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người khỏi bóc lột và bất công. Người đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, trở thành Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, phương pháp và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới trong lịch sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người kêu gọi một số tổ chức quốc tế, các đảng anh em có những hình thức phối hợp đấu tranh nhằm động viên, giúp đỡ phong trào về vật chất và tinh thần. Bên cạnh đó, Người còn thẳng thắn góp ý phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta. Người không chỉ kêu gọi sự giúp đỡ phong trào mà còn ngăn chặn sự đàn áp đẫm máu của bọn đế quốc, nhờ đó mà Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời đánh giá cao công lao to lớn của Người.

Tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng đã họp và ra nghị quyết: Hội nghị hiệp nhất Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì là phạm sai lầm, chỉ lo đến việc phản đế mà quên lợi ích giai cấp đấu tranh, việc phân chia thành trung, tiểu, đại địa chủ trong sách lược của Đảng là không đúng nên Hội nghị đã bỏ tên "Đảng Cộng sản Việt Nam" mà lấy tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương" hoạt động theo như chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Bên cạnh đó, Đại hội I của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Ma Cao vẫn cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Điều đó chứng tỏ quan điểm và uy tín của Người trong Đảng vẫn rất lớn.

Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, Người học đầy đủ các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và những phương pháp học tự nghiên cứu kết hợp với thực tế. Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm 1937, Người dự kỳ thi học kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn học. Do chiến tranh ngày một ác liệt, Người không thể yên tâm ngồi học mà nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.

Trước khi về nước, trong thời gian khi còn hoạt động ở nước ngoài, dù đã từng bị tù đầy trong lao tù đế quốc vượt qua bao khó khăn gian khổ nhưng Người vẫn kiên định thực hiện con đường đã chọn là giải phóng dân tộc. Người vẫn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.

Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó [Cao Bằng] dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Người khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"[5]. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tranh thủ mọi lực lượng yêu nước chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù. Hội nghị quyết định thành lập "Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là Mặt trận Việt Minh vào ngày 19/05/1941. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người viết: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"[6]. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật. Đây là thắng lợi to lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" [7]. Bản tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc và nói lên ý chí của toàn dân quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy"[8]. Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm 1930, nay đã trở thành hiện thực cách mạng đồng thời trở thành chân lý của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc Việt Nam.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969

Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược Việt Nam. Quân Pháp núp sau quân đội Anh, đã nổ súng ở Nam Bộ. Ở miền Bắc thì hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vận mệnh dân tộc lúc đó như "ngàn cân treo sợi tóc" trước tình thế đó, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở. Người cùng Trung ương Đảng một mặt lãnh đạo đồng bào Nam Bộ kháng chiến, mặt khác chăm lo xây dựng Đảng, củng cố chính quyền non trẻ, đầy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn, bớt thù, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", với những nhân nhượng cần thiết để tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng đi vào cuộc kháng chiến lâu dài. Nhờ vậy mà tháng 12-1946, chính quyền cách mạng trong cả nước được giữ vững với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!"[9]. Người đề ra đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh đồng thời Người lãnh đạo, tổ chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và kiên quyết chiến đấu bảo vệ tổ quốc với ý chí "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"[10]

Năm 1951, Người cùng Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam và bầu Người làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong Thư gửi Đại hội trù bị, Người viết: "Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam"[11]. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới, Điều lệ mới của Đảng đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đẩy mạnh kháng chiến đưa đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ lịch sử [năm 1954] lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Người chỉ đạo, động viên cán bộ chiến sĩ trên mặt trận và truyền thêm sức mạnh, ý chí quyết chiến quyết thắng, một niềm tin sắt đá để quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ giành thắng lợi. Trong Thư gửi Mặt trận Điện Biên Phủ, Người viết: "Thu Đông năm nay, các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén"[12]. Tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được giải phóng, nhưng miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Năm 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Người nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược: "Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà"[13]. Cả hai nhiệm vụ đều nhằm mục tiêu chung là củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Người còn nêu rõ miền Bắc là hậu phương lớn, có vai trò quyết định đối với cách mạng cả nước, miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đối với hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, là hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, Người nhấn mạnh trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ công đoàn: "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có người xã hội chủ nghĩa"[14]. Con người mới xã hội chủ nghĩa là những người có đạo đức và tri thức, là những người vừa "hồng" vừa "chuyên" và có ý thức làm chủ, xây dựng nước nhà. Người lãnh đạo nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đồng thời ra sức hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam. Người cũng luôn tin tưởng và khẳng định sự tất thắng của cách mạng miền Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ, Người nêu rõ: "Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí"[15]. Người còn viết Thư gửi đồng bào cả nước vạch trần những âm mưu trong nước và thế giới về những hành động sai trái của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: "Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam và Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà"[16]. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, đòi hỏi toàn thể đồng bào phải quyết tâm kháng chiến.

Năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Chúng dùng mọi thủ đoạn, mọi phương tiện hiện đại đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân kể cả máy bay chiến lược B.52. Trước những hành động leo thang xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: "dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"[17] Người đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người nói: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!"[18]. Người khẳng định nhân dân Việt Nam chẳng những không sợ mà còn còn quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, đồng bào và chiến sĩ từ hậu phương đến tuyền tuyến đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với tinh thần dũng cảm đã đoàn kết chiến đấu lần lượt đánh thắng mọi chiến lược của kẻ thù và giành được thắng lợi vẻ vang nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Ngày 02/09/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc thiêng liêng. Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết, nói lên tình sâu nghĩa nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm tin tất thắng ở sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"[19]. Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng, Người đã vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập và noi theo. Mỗi chúng ta cần cố gắng, nỗ lực hết mình để chăm lo hạnh phúc của nhân dân, ra sức phấn đấu, rèn luyện, noi gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là những người cán bộ, đảng viên chân chính hết lòng phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ"[20]. Việc nghiên cứu, tuyên truyền, học tập tấm gương Hồ Chí Minh góp phần thiết thực vào việc làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành một bộ phận cấu thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại.

Chú thích:

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 1, tr.461

[2] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr.33

[3], [14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.562, tr.123

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.609

[5], [6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596

[7], [8], [9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534

[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.579

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.15

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.378

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.477

[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.3

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.359-360

[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.577

[18], [19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.131, tr.614

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.202.

Nguyễn Thu Giang

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

  • 💝💝 HƯỞNG ỨNG PHONG TRÀO “MỖI ĐOÀN VIÊN-MỘT PHẦN VIỆC TÌNH NGUYỆN; MỖI CHI ĐOÀN – MỘT CTTN”VÌ ĐÀN EM THÂN YÊU””💝💝
  • ❤CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH PHƯỜNG HÒA CƯỜNG BẮC LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ 2022-2027 – CHƯƠNG TRÌNH “MÙA ĐÔNG ẤM ÁP – TRAO QUÀ YÊU THƯƠNG”❤
  • SỰ GIẢN DỊ CỦA BÁC HỒ
  • ĐOÀN PHƯỜNG HÒA CƯỜNG BẮC TỔ CHỨC TẬP HUẤN KỸ NĂNG SỬ DỤNG INTERNET AN TOÀN
  • ĐOÀN PHƯỜNG HÒA CƯỜNG BẮC TỔ CHỨC KHEN THƯỞNG ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN CÓ THÀNH TÍCH TỐT TRONG CÔNG TÁC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG GIẢNG DẠY

Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh

26/03/2018 13:49:00 Xem cỡ chữ
Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đạo đức, phong cách, tư tưởng, sự nghiệp Hồ Chí Minh đã trở thành bất tử trong lòng dân tộc, mãi mãi là tấm gương cho mọi người phấn đấu học tập và làm theo. Cuộc sống riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự hòa nhập với cuộc đời công mà Người đã hiến dâng tất cả cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng toàn thế giới.

Bữa cơm thường nhật tại căn cứ cách mạng của Hồ Chủ tịch. [Ảnh: tư liệu]

Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ một triết lý nhân sinh là lấy khiêm tốn, giản dị, đức độ, yêu thương con người làm chuẩn. Đó là sự giản dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh hoạt hàng ngày; đó là cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian; không ham muốn danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương yêu con người quyện với tình yêu thiên nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ, kết hợp chặt chẽ với những rung động say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Là lãnh tụ của dân tộc nhưng đời sống vật chất của Người cũng như đại đa số của người dân bình thường.

Sau gần ba mươi năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân, trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Người đã sống ở hang núi Pác Bó [Cao Bằng] trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn với tinh thần lạc quan cách mạng. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [1945 - 1954], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng di chuyển lên Việt Bắc, lãnh đạo kháng chiến kiến quốc. Nơi ở của Người chỉ là một ngôi Nhà sàn bé hoặc mái lá đơn sơ. Kháng chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn nơi ở và làm việc là một ngôi nhà nhỏ vốn của người thợ điện phục vụ cho phủ Toàn quyền Đông Dương cũ. Đảng, Nhà nước mời Người ra ở tòa nhà lớn Phủ Chủ tịch nhưng Người đã từ chối. Khi ngôi Nhà sàn được xây dựng thì tầng dưới Người dùng làm nơi họp Bộ Chính trị và làm việc với cán bộ các bộ, ban, ngành, tiếp một số đoàn khách, bạn bè, đồng chí gần gũi hoặc các cháu thiếu niên, nhi đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dành cho mình một chút riêng ở tầng trên Nhà sàn với hai phòng nhỏ, diện tích mỗi phòng chỉ hơn 10m2. Trong phòng làm việc cũng như phòng ngủ chỉ có những đồ vật thật sự cần thiết và hết sức đơn giản. Người rất ghét thói xa hoa, lãng phí, hưởng thụ và lại càng xa lạ với thói phô trương, hình thức.

Bữa ăn hàng ngày của Người thường chỉ có canh cua, tương cà, dưa muối, cá kho với lá gừng…, đó là những món ăn quen thuộc mà Người ưa thích. Người nhắc các đồng chí phục vụ bữa ăn cho mình chỉ nấu vừa đủ, không để thừa, tránh lãng phí. Sau các bữa ăn, Người tự mình sắp xếp gọn gàng bát đĩa trên bàn để các đồng chí phục vụ thu dọn đỡ vất vả. Những hôm trời mưa to, Người vẫn đi đến chỗ ăn cơm vì không muốn để các đồng chí phục vụ phải vất vả.

Trang phục của Người cũng hết sức giản dị. Trong những lúc làm việc ở nhà, Người thường mặc bộ quần áo bà ba lụa Hà Đông màu nâu, đi đôi guốc gỗ. Khi tiếp khách, đi công tác, Người thường mặc bộ quần áo ka ki bốn túi và đi đôi dép cao su.Trong sinh hoạt hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cho mình một kỷ luật chặt chẽ và khoa học. Người thường đọc báo chí, bản tin trước giờ làm việc, đánh dấu các bài cần chú ý để tiện việc theo dõi, trao đổi ý kiến và sử dụng khi cần thiết. Những công việc trong ngày, trong tuần, trong tháng - từ việc họp hành, làm việc với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt hay phụ trách các bộ, ban, ngành, tiếp khách trong nước và quốc tế đến việc viết báo, đọc và trả lời thư từ, đi thăm cán bộ, nhân dân các địa phương, cơ sở, xem phim, xem văn nghệ… đều được Người bố trí một cách hết sức hợp lý, chú ý sao cho tốn ít thời gian, ít làm phiền đến cơ sở mà lại có hiệu quả nhất.

Trong những năm kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích và cùng anh em trong cơ quan tăng gia sản xuất để cải thiện bữa ăn hàng ngày, tập võ hay chơi bóng chuyền để nâng cao thể lực và sức khỏe, phòng tránh bệnh tật, ốm đau. Những năm tháng sống ở trong khu Phủ Chủ tịch, Người thường luyện gân tay bằng cách nắm hai hòn cuội, luyện đôi chân bằng cách đi bách bộ. Cho đến những năm cuối đời, Người vẫn cố đi dạo và mỗi ngày đi thêm mấy chục mét với hy vọng duy trì sức khỏe để đi thăm đồng bào, chiến sĩ miền Nam.

Khi thấy sức khỏe bắt đầu giảm sút dần, Người bắt đầu viết Di chúc. Bốn năm trước lúc đi xa, cứ mỗi năm, Người lại đem ra xem lại vào thời gian nhất định và sửa chữa, bổ sung, để lại cho toàn Đảng, toàn dân những lời dặn dò, những mong mỏi tâm huyết nhất.

Trong cuộc sống hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu thiên nhiên và sống gắn bó, hòa vào thiên nhiên. Trong những năm tháng đi tìm đường cứu nước, dù phải làm việc cực nhọc trên những con tàu vượt đại dương, Người vẫn thường dậy sớm để ngắm trời biển bao la. Dù phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống và để hoạt động cách mạng, Người vẫn tìm cách đi thăm nhiều nơi, nhiều cảnh đẹp, nhiều công trình cổ kính và tráng lệ của nước Pháp, chiêm ngưỡng kiến trúc kỳ vĩ của La Mã cổ đại…

Khi trở về Tổ quốc, người đích thực sống hòa nhập với thiên nhiên, với bờ suối, rừng cây, có cảnh đất trời, sông núi, có đất trồng rau, trồng hoa… Những năm tháng ở Thủ đô Hà Nội, Người sống trong ngôi Nhà sàn dưới bóng cây râm mát, rộn rã tiếng chim, có ao nuôi cá. Mảnh đất nhỏ trước Nhà sàn, Người trồng đủ các loại hoa, có hàng rào hoa dâm bụt bao quanh như ở làng Sen quê nhà. Phía sau nhà là vườn cam quê hương, bên kia bờ ao cá là vườn trồng rau xanh và một số cây ăn quả như cam, bưởi, hồng, táo, xoài, dừa… Đầu Nhà sàn là cây vú sữa, trước nhà là những cây dừa... của đồng bào miền Nam tặng Người. Những lúc mát trời, Người ngồi đọc sách, tiếp khách bên giàn hoa giấy phía sau tòa nhà Phủ Chủ tịch, không gian thiên nhiên thoáng đãng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý bảo vệ thiên nhiên, môi trường sinh thái. Một cây bụt mọc bên bờ ao cá bị sâu mục và mối ăn làm rỗng ruột đến quá nửa thân nhưng Người cũng không cho chặt bỏ với một lời giải thích hết sức đơn giản và thuyết phục: Việc chặt bỏ một cây thì dễ nhưng trồng được cây to bóng mát như vậy thì phải mất hàng chục năm mới có được và Người còn hướng dẫn cho người làm vườn cách cứu chữa cho cây khỏi bị sâu mục và mối xông. Người đã đề xướng phong trào “Tết trồng cây”, vì “việc này tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều”: “Mùa Xuân là tết trồng cây/Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Phong trào trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động ngày nay đã trở thành một phong tục tập quán tốt đẹp trong nhân dân.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thiên nhiên gắn liền tình yêu đất nước, tình yêu con người, vì hạnh phúc của con người, vì sự phồn vinh của đất nước. Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Nhân dịp trồng cây trên đồi Vật Lại, Ba Vì, Người đã mời một số cán bộ có trách nhiệm đến bàn tiếp vấn đề trồng người. Người căn dặn phải bắt đầu từ việc chăm sóc cây mới trồng, từng con người mới lớn, nâng niu từng tấm gương người tốt, việc tốt xuất hiện ở trong cuộc sống hàng ngày của hàng triệu triệu quần chúng nhân dân lao động trong cả nước. Phải có nhiều cây mới thành rừng, phải có nhiều người tốt mới thành một xã hội tốt đẹp.

Tình con người và tình yêu thiên nhiên đã tạo nên tinh thần lạc quan, tâm hồn thư thái, khoáng đạt, phong cách ung dung, tự tại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh. Người truyền tinh thần lạc quan cho mọi người bằng những lời nói đầy thuyết phục, bằng cả những câu chuyện vui nhẹ nhàng, hài hước đặc biệt là bằng sự quan tâm đầy tình nghĩa. Dù bộn bề nhiều việc lớn của dân, của nước, của thế giới, Người vẫn chú ý đến đời sống riêng tư của các đồng chí phục vụ. Những khi đi công tác xa, Người không quên bố trí cho cán bộ không phải đi công tác được phép nghỉ về thăm gia đình. Những ngày lễ, Tết, mọi người quây quần bên nhau như trong một gia đình đầm ấm, đầy tình cảm yêu thương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trung với nước, hiếu với dân là cao hơn tất cả nhưng không vì thế mà quên hiếu nghĩa đối với người thân, gia đình. Khi còn bôn ba ở nước ngoài, những lá thư của Người gửi cho cụ thân sinh không đến nơi được vì chính quyền thực dân đã giữ lại. Người đã viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, Toàn quyền Đông Dương hỏi địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy nhưng đều không có hồi âm. Năm 1950, nghe tin anh cả Nguyễn Sinh Khiêm mất, Người viết thư gửi họ Nguyễn Sinh: “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không lo liệu”.

Suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc, hướng tới mục đích cao nhất. Người nói với đồng bào cả nước: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người luôn quan tâm lo lắng để thực hiện những mong muốn cho nước, cho dân, từ độc lập, tự do cho dân tộc đến đời sống của mỗi gia đình không ngừng được cải thiện, nâng cao.

Cùng với sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách sinh hoạt là một phần tạo nên sự toàn vẹn, tầm vóc vĩ đại của danh nhân văn hóa, anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh. Người mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ người Việt Nam học tập, noi theo, để phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và cho thế giới ngày càng tốt đẹp.

Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không những đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đạo đức, phong cách, tư tưởng, sự nghiệp Hồ Chí Minh đã trở thành bất tử trong lòng dân tộc, mãi mãi là tấm gương cho mọi người phấn đấu học tập và làm theo. Cuộc sống riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự hòa nhập với cuộc đời công mà Người đã hiến dâng tất cả cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng toàn thế giới.Phong cách sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ một triết lý nhân sinh là lấy khiêm tốn, giản dị, đức độ, yêu thương con người làm chuẩn. Đó là sự giản dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh hoạt hàng ngày; đó là cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian; không ham muốn danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương yêu con người quyện với tình yêu thiên nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ, kết hợp chặt chẽ với những rung động say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Là lãnh tụ của dân tộc nhưng đời sống vật chất của Người cũng như đại đa số của người dân bình thường. Sau gần ba mươi năm bôn ba nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân, trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Người đã sống ở hang núi Pác Bó [Cao Bằng] trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn với tinh thần lạc quan cách mạng. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [1945 - 1954], Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng di chuyển lên Việt Bắc, lãnh đạo kháng chiến kiến quốc. Nơi ở của Người chỉ là một ngôi Nhà sàn bé hoặc mái lá đơn sơ. Kháng chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn nơi ở và làm việc là một ngôi nhà nhỏ vốn của người thợ điện phục vụ cho phủ Toàn quyền Đông Dương cũ. Đảng, Nhà nước mời Người ra ở tòa nhà lớn Phủ Chủ tịch nhưng Người đã từ chối. Khi ngôi Nhà sàn được xây dựng thì tầng dưới Người dùng làm nơi họp Bộ Chính trị và làm việc với cán bộ các bộ, ban, ngành, tiếp một số đoàn khách, bạn bè, đồng chí gần gũi hoặc các cháu thiếu niên, nhi đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dành cho mình một chút riêng ở tầng trên Nhà sàn với hai phòng nhỏ, diện tích mỗi phòng chỉ hơn 10m2. Trong phòng làm việc cũng như phòng ngủ chỉ có những đồ vật thật sự cần thiết và hết sức đơn giản. Người rất ghét thói xa hoa, lãng phí, hưởng thụ và lại càng xa lạ với thói phô trương, hình thức. Bữa ăn hàng ngày của Người thường chỉ có canh cua, tương cà, dưa muối, cá kho với lá gừng…, đó là những món ăn quen thuộc mà Người ưa thích. Người nhắc các đồng chí phục vụ bữa ăn cho mình chỉ nấu vừa đủ, không để thừa, tránh lãng phí. Sau các bữa ăn, Người tự mình sắp xếp gọn gàng bát đĩa trên bàn để các đồng chí phục vụ thu dọn đỡ vất vả. Những hôm trời mưa to, Người vẫn đi đến chỗ ăn cơm vì không muốn để các đồng chí phục vụ phải vất vả. Trang phục của Người cũng hết sức giản dị. Trong những lúc làm việc ở nhà, Người thường mặc bộ quần áo bà ba lụa Hà Đông màu nâu, đi đôi guốc gỗ. Khi tiếp khách, đi công tác, Người thường mặc bộ quần áo ka ki bốn túi và đi đôi dép cao su.Trong sinh hoạt hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cho mình một kỷ luật chặt chẽ và khoa học. Người thường đọc báo chí, bản tin trước giờ làm việc, đánh dấu các bài cần chú ý để tiện việc theo dõi, trao đổi ý kiến và sử dụng khi cần thiết. Những công việc trong ngày, trong tuần, trong tháng - từ việc họp hành, làm việc với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt hay phụ trách các bộ, ban, ngành, tiếp khách trong nước và quốc tế đến việc viết báo, đọc và trả lời thư từ, đi thăm cán bộ, nhân dân các địa phương, cơ sở, xem phim, xem văn nghệ… đều được Người bố trí một cách hết sức hợp lý, chú ý sao cho tốn ít thời gian, ít làm phiền đến cơ sở mà lại có hiệu quả nhất. Trong những năm kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khuyến khích và cùng anh em trong cơ quan tăng gia sản xuất để cải thiện bữa ăn hàng ngày, tập võ hay chơi bóng chuyền để nâng cao thể lực và sức khỏe, phòng tránh bệnh tật, ốm đau. Những năm tháng sống ở trong khu Phủ Chủ tịch, Người thường luyện gân tay bằng cách nắm hai hòn cuội, luyện đôi chân bằng cách đi bách bộ. Cho đến những năm cuối đời, Người vẫn cố đi dạo và mỗi ngày đi thêm mấy chục mét với hy vọng duy trì sức khỏe để đi thăm đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Khi thấy sức khỏe bắt đầu giảm sút dần, Người bắt đầu viết Di chúc. Bốn năm trước lúc đi xa, cứ mỗi năm, Người lại đem ra xem lại vào thời gian nhất định và sửa chữa, bổ sung, để lại cho toàn Đảng, toàn dân những lời dặn dò, những mong mỏi tâm huyết nhất. Trong cuộc sống hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu thiên nhiên và sống gắn bó, hòa vào thiên nhiên. Trong những năm tháng đi tìm đường cứu nước, dù phải làm việc cực nhọc trên những con tàu vượt đại dương, Người vẫn thường dậy sớm để ngắm trời biển bao la. Dù phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống và để hoạt động cách mạng, Người vẫn tìm cách đi thăm nhiều nơi, nhiều cảnh đẹp, nhiều công trình cổ kính và tráng lệ của nước Pháp, chiêm ngưỡng kiến trúc kỳ vĩ của La Mã cổ đại… Khi trở về Tổ quốc, người đích thực sống hòa nhập với thiên nhiên, với bờ suối, rừng cây, có cảnh đất trời, sông núi, có đất trồng rau, trồng hoa… Những năm tháng ở Thủ đô Hà Nội, Người sống trong ngôi Nhà sàn dưới bóng cây râm mát, rộn rã tiếng chim, có ao nuôi cá. Mảnh đất nhỏ trước Nhà sàn, Người trồng đủ các loại hoa, có hàng rào hoa dâm bụt bao quanh như ở làng Sen quê nhà. Phía sau nhà là vườn cam quê hương, bên kia bờ ao cá là vườn trồng rau xanh và một số cây ăn quả như cam, bưởi, hồng, táo, xoài, dừa… Đầu Nhà sàn là cây vú sữa, trước nhà là những cây dừa... của đồng bào miền Nam tặng Người. Những lúc mát trời, Người ngồi đọc sách, tiếp khách bên giàn hoa giấy phía sau tòa nhà Phủ Chủ tịch, không gian thiên nhiên thoáng đãng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú ý bảo vệ thiên nhiên, môi trường sinh thái. Một cây bụt mọc bên bờ ao cá bị sâu mục và mối ăn làm rỗng ruột đến quá nửa thân nhưng Người cũng không cho chặt bỏ với một lời giải thích hết sức đơn giản và thuyết phục: Việc chặt bỏ một cây thì dễ nhưng trồng được cây to bóng mát như vậy thì phải mất hàng chục năm mới có được và Người còn hướng dẫn cho người làm vườn cách cứu chữa cho cây khỏi bị sâu mục và mối xông. Người đã đề xướng phong trào “Tết trồng cây”, vì “việc này tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều”: “Mùa Xuân là tết trồng cây/Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Phong trào trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động ngày nay đã trở thành một phong tục tập quán tốt đẹp trong nhân dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thiên nhiên gắn liền tình yêu đất nước, tình yêu con người, vì hạnh phúc của con người, vì sự phồn vinh của đất nước. Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Nhân dịp trồng cây trên đồi Vật Lại, Ba Vì, Người đã mời một số cán bộ có trách nhiệm đến bàn tiếp vấn đề trồng người. Người căn dặn phải bắt đầu từ việc chăm sóc cây mới trồng, từng con người mới lớn, nâng niu từng tấm gương người tốt, việc tốt xuất hiện ở trong cuộc sống hàng ngày của hàng triệu triệu quần chúng nhân dân lao động trong cả nước. Phải có nhiều cây mới thành rừng, phải có nhiều người tốt mới thành một xã hội tốt đẹp. Tình con người và tình yêu thiên nhiên đã tạo nên tinh thần lạc quan, tâm hồn thư thái, khoáng đạt, phong cách ung dung, tự tại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh. Người truyền tinh thần lạc quan cho mọi người bằng những lời nói đầy thuyết phục, bằng cả những câu chuyện vui nhẹ nhàng, hài hước đặc biệt là bằng sự quan tâm đầy tình nghĩa. Dù bộn bề nhiều việc lớn của dân, của nước, của thế giới, Người vẫn chú ý đến đời sống riêng tư của các đồng chí phục vụ. Những khi đi công tác xa, Người không quên bố trí cho cán bộ không phải đi công tác được phép nghỉ về thăm gia đình. Những ngày lễ, Tết, mọi người quây quần bên nhau như trong một gia đình đầm ấm, đầy tình cảm yêu thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trung với nước, hiếu với dân là cao hơn tất cả nhưng không vì thế mà quên hiếu nghĩa đối với người thân, gia đình. Khi còn bôn ba ở nước ngoài, những lá thư của Người gửi cho cụ thân sinh không đến nơi được vì chính quyền thực dân đã giữ lại. Người đã viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, Toàn quyền Đông Dương hỏi địa chỉ của cụ Nguyễn Sinh Huy nhưng đều không có hồi âm. Năm 1950, nghe tin anh cả Nguyễn Sinh Khiêm mất, Người viết thư gửi họ Nguyễn Sinh: “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không lo liệu”. Suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc, hướng tới mục đích cao nhất. Người nói với đồng bào cả nước: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người luôn quan tâm lo lắng để thực hiện những mong muốn cho nước, cho dân, từ độc lập, tự do cho dân tộc đến đời sống của mỗi gia đình không ngừng được cải thiện, nâng cao. Cùng với sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách sinh hoạt là một phần tạo nên sự toàn vẹn, tầm vóc vĩ đại của danh nhân văn hóa, anh hùng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh. Người mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ người Việt Nam học tập, noi theo, để phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và cho thế giới ngày càng tốt đẹp.

Các bài khác

  • Những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh - Một nhân cách văn hóa kiệt xuất
  • Phong cách quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
  • Học tập tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử
  • Bác Hồ, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng giáo dục, nhà sư phạm thực tiễn vĩ đại, đồng thời là một tấm gương sáng ngời về tự học
  • Ung dung tự tại - Phong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh
  • Giản dị Bác Hồ
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh, tấm gương sáng về nói đi đôi với làm
  • Tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh
  • Nghệ thuật dùng người, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bài 4: Học Bác từ những điều giản dị

[ĐCSVN] – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta, các thế hệ hôm nay và mai sau một di sản tư tưởng vô cùng quý báu, một tấm gương đạo đức và phong cách, lối sống giản dị, trong sáng. Học và làm theo gương Bác, mỗi tập thể và cá nhân đã có những cách làm thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của mình...

Lời của Bác cũng là lời non nước

Bài 2: Cách làm thiết thực để tiếp nối và phát triển sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ

Bài 3: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên quê hương Bác

Đồng chí Lê Thị Lụa, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã Việt Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái vừa được tín nhiệm tái cử các chức danh tại Đại hội Đảng bộ xã

Sự giản dị làm nên điều vĩ đại Hồ Chí Minh

Khi thực hiện chủ trương của Đảng về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có tâm lý e ngại rằng làm sao có thể học được một ở một người anh hùng, một vĩ nhân có nhiều ưu điểm kiệt xuất của thời đại. Tuy nhiên, càng nghiên cứu, học tập, chúng ta càng thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại không chỉ bởi những điều lớn lao, hay những thành quả cách mạng Người giành được cho dân tộc Việt Nam ta mà tấm gương đạo đức của Người còn cao đẹp ở những điều giản dị, rất đỗi đời thường mà bất kỳ ai cũng có thể học tập và noi theo để hoàn thiện mình.

Các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước đã khẳng định nhiều lần tại các Hội thảo trong nước và quốc tế rằng: Sự giản dị làm nên điều vĩ đại Hồ Chí Minh.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu đã cảm thấy thân thiết từ lâu.”

Năm 2019, tại Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã nhắc lại câu nói của Bác Hồ từ năm 1947: “Tôi khuyên các bạn là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần đến khó, từ thấp dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi hơn là một trăm chương trình to tát mà không làm được”. Thường trực Ban Bí thư yêu cầu các cấp, các ngành tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, phong cách của Người phù hợp với từng địa phương, đơn vị, phù hợp với mỗi cá nhân…

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 05 ngày 15/5/2016, xác định việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Từ phong trào này đã xuất hiện nhiều điểm sáng, tấm gương điển hình, mô hình mới, cách làm sáng tạo, tạo sức lan tỏa, nhân rộng trong xã hội, góp phần quan trọng củng cố và bảo vệ nền tảng tư tưởng, văn hóa, đạo đức của Đảng, đồng thời tiếp sức, cổ vũ toàn thể nhân dân ta kiên định, hăng hái, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội...

Chọn trọng tâm học và làm theo Bác

Tỉnh Nam Định đã chọn trọng tâm thi đua học và làm theo gương Bác trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Toàn tỉnh đã có hàng nghìn mô hình, điển hình tập thể, cá nhân, trong đó phải kể đến nhiều mô hình hiệu quả như: xây dựng nông thôn mới bền vững và phát triển, mô hình xây dựng làng xã văn hoá, đô thị văn minh; cánh đồng lớn; dồn điền đổi thửa; tuyến đường “xanh - sạch - đẹp”; con đường hoa; xây dựng khu dân cư “văn hóa nông thôn mới”; tạo cảnh quan sáng - xanh - sạch - đẹp; camera an ninh... Qua đó, đã góp phần hiện thực hóa mục tiêu tỉnh nông thôn mới theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra. Đến nay, toàn tỉnh có 100% xã, thị trấn và 10/10 huyện, thành phố được Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Huyện Hải Hậu là một trong ba đơn vị cấp huyện của cả nước được Trung ương lựa chọn làm điểm huyện Nông thôn mới kiểu mẫu “Sáng - xanh - sạch - đẹp” phát triển bền vững giai đoạn 2018-2023.

Từ những kết quả trong những năm qua, Nam Định trở thành điểm sáng, được Trung ương đánh giá là một trong những đơn vị dẫn đầu cả nước về xây dựng nông thôn mới. Các mô hình thực hiện nếp sống văn hoá mới đã có tác động tích cực trong việc cưới, việc tang và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh. Nhiều địa phương đã gắn việc học và làm theo Bác với các mô hình cụ thể thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, mừng thọ, lễ hội đảm bảo đúng các quy định pháp luật của Nhà nước, phù hợp với truyền thống, phong tục tập quán, nếp sống văn hóa mới, quy ước của địa phương; nhiều hủ tục lạc hậu, nghi lễ dân gian được xoá bỏ, đơn giản hơn. Tiêu biểu như các mô hình xóm văn hoá - nông thôn mới; gia đình văn hóa - nông thôn mới; làm cỗ đủ ăn, không làm cỗ chia phần và ăn cỗ lấy phần; tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích; cưới theo nếp sống mới; đám cưới 5 không [không rượu, bia; không thuốc lá; không cờ bạc; không xảy ra xô xát, cãi vã; không mở loa, đài quá to trước 7 giờ sáng và sau 22 giờ tối]... Việc thực hiện tốt quy ước nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội đã tác động tích cực đến công tác xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Đến nay, toàn tỉnh có trên 80% hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa, trên 70% thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa; 100% số xã, thị trấn đạt chuẩn về văn hóa trong xây dựng nông thôn mới.

PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương với những chia sẻ về nghiên cứu của Viện

Đối diện hiểm nguy không lùi bước

Theo PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, học và làm theo gương Bác được các nhà khoa học trong Viện xác định là phải thực hiện tốt từng phần việc của mình, nghiên cứu, giải mã thành công được vi rút gây ra các loại bệnh.

Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương là một trong những cơ sở khoa học đứng đầu cả nước trong lĩnh vực y học dự phòng. “Bệnh nhân” của họ không phải người bệnh, mà là những con vi rút ở kích thước siêu vi, ẩn chứa trong các mẫu bệnh phẩm. Đây là một công việc nguy hiểm vì chỉ cần một sơ sẩy nhỏ, các mẫu bệnh phẩm phát tán vi rút ra ngoài thì cán bộ xét nghiệm sẽ là người bị lây nhiễm đầu tiên.

Phòng Thí nghiệm cúm, Khoa Vi rút, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương hiện có 9 cán bộ nữ trên tổng số 12 cán bộ. Các chị đều có ít nhất 10 năm kinh nghiệm, được đào tạo về an toàn sinh học, rất thuần thục khi phân tích, đặc biệt đều đã trải qua cảm giác nguy hiểm khi nghiên cứu nhiều về cúm gia cầm độc lực cao A/H5N1, đại dịch cúm H1N1 năm 2009, vi rút MERS Cov năm 2012, dịch Ebola... Phụ nữ làm khoa học có những lợi thế như cẩn thận, tỉ mỉ, không nóng vội nhưng đây là công việc rất vất vả. Suốt ngày trong phòng thí nghiệm, đối diện với hiểm nguy, nhưng không có ai lùi bước. Mọi người cùng quyết tâm hăng say nghiên cứu để giải mã thành công những loại vi rút gây bệnh.

Từ trước Tết Nguyên đán Canh Tý đến nay, khi dịch COVID-19 hoành hành, cuộc sống của các chị và đồng nghiệp Khoa Vi rút bị đảo lộn, phải thay nhau bám trụ trong phòng thí nghiệm “săn bắt” con vi rút Corona, tác nhân gây nên dịch nguy hiểm cho cộng đồng.Kết quả, sau 72 giờ nghiên cứu, phân lập, các nhà khoa học Việt Nam đã nhìn thấy hình hài con vi rút Corona trong phòng thí nghiệm.Việc nuôi cấy và phân lập thành công vi rút Corona chủng mới trong phòng thí nghiệm là cơ sở quan trọng để bắt đầu rất nhiều bước nghiên cứu khác, như liệu pháp điều trị, phát triển sinh phẩm chẩn đoán đặc hiệu và sản xuất vắc xin phòng bệnh.

PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai và tập thể cán bộ nữ của khoa cũng đã đăng ký để nhận Giải thưởng Kovalevskaia năm 2019 tập trung vào dịch bệnh cúm mùa. Mục tiêu của công trình là giảm nguy cơ, ảnh hưởng của dịch cúm nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới. Các nhà khoa học nữ của Phòng Thí nghiệm cúm, Khoa Vi rút, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, đứng đầu là PGS.TS Lê Thị Quỳnh Mai đã thành công trong việc kết nối, hệ thống những thành tựu nghiên cứu tại Việt Nam và phát triển lý thuyết khoa học, đi từ vi rút cúm tới chế phẩm vắc xin cúm mùa và vắc xin cho đại dịch cúm. Kết quả đó được ghi nhận trong 207 bài báo trên các tạp chí khoa học uy tín trong nước và quốc tế, trong đó 141 bài được đăng trên tạp chí quốc tế…

Là cán bộ phải luôn gương mẫu, đi đầu

Đồng chí Lê Thị Lụa, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND xã Việt Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái được người dân vùng núi cao yêu mến gọi là nữ “bí thư nông dân” vì chính bản thân đồng chí cũng là người trực tiếp tích cực phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã. Chị Lụa cho biết, làm cán bộ phải gương mẫu, thực sự gần dân, vì dân, sâu sát cơ sở. Trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới, không ỷ lại vào nguồn vốn của trên mà phải xác định tiêu chí nào thuận lợi, phù hợp với khả năng của xã, thôn thì ưu tiên làm trước; phát huy mọi nguồn lực của địa phương, trong nhân dân cho phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của bà con…

Chia sẻ với chúng tôi, đồng chí Lê Thị Lụa cho biết: “Tôi xác định học tập Bác Hồ không phải là học việc gì lớn lao. Học tập Bác Hồ về tác phong bình dị, giản dị, phong cách làm việc biết kính trên, nhường dưới, vì mọi người. Bên cạnh đó là học theo các bậc lãnh đạo đi trước và học ở dân. Phải xuống để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của dân". Từ tâm nguyện đó, chị Lụa cho rằng, muốn tạo được sức mạnh tổng hợp, để người dân đồng lòng thì lãnh đạo phải nêu gương, làm trước. Đó cũng là lý do vợ chồng chị sẵn sàng hiến hàng trăm m2 đất để làm đường. Hành động đó đã lan tỏa khiến nhiều người khâm phục, làm theo. Với sự đồng lòng, quyết tâm của Đảng bộ và sự gương mẫu của đồng chí Bí thư Đảng ủy, năm 2015, xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua và thưởng 200 triệu đồng; được Chính phủ tặng Bằng khen và thưởng 1 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo từ 10,5% năm 2011 giảm xuống còn 2,18% năm 2019; thu nhập bình quân đầu người từ 8,5 triệu đồng/năm nay đạt 30 triệu đồng/năm; từ chỗ cả xã chỉ có 2km đường bê tông, nay các đường trục chính và đường về các thôn, xóm đã cơ bản được bê tông hóa.

Tại Đại hội Đảng bộ xã khóa XXIII vừa qua, đồng chí Lê Thị Lụa tiếp tục được tín nhiệm bầu tiếp tục giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy xã khóa XXIII, đồng thời làm Chủ tịch UBND xã.

Phó Bí thư Chi bộ, Tổ trưởng Tổ dân phố 8,[TX Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh], chị Trần Thị Minh nhận Bằng khen của Tỉnh ủy

Học Bác cách huy động sức dân

Hơn 7 năm làm Phó Bí thư Chi bộ, Tổ trưởng Tổ dân phố 8,[TX Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh], chị Trần Thị Minh nắm rất rõ hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của hơn 270 hộ dân, với trên 1.200 nhân khẩu trongTổ. Chị đã rút ra những bài học quý cho mình khi thực hiện các nhiệm vụ được giao và trong phong trào thi đua xây dựng đời sống mới, xây dựng, chỉnh trang đô thị. Chị Minh khiêm tốn chia sẻ: “Huy động sức mạnh từ nhân dân là một trong những kinh nghiệm quý tôi đúc kết được trong nhiều năm tham gia BCH chi hội phụ nữ Tổ dân phố. Với phương châm “Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, từ việc lớn đến việc nhỏ, dù là xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện hay việc hạch toán kinh phí đến kiểm tra, giám sát... đều đưa ra bàn bạc công khai trong toàn Tổ dân phố, khi đã đi đến thống nhất mới triển khai thực hiện”.

Khi đã hiểu rõ mục đích, lợi ích của quá trình xây dựng, chỉnh trang đô thị đạt chuẩn đô thị văn minh là phục vụ nhân dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hàng trăm hộ gia đình trên địa bàn Tổ dân phố và nhiều con em địa phương xa quê tự nguyện ủng hộ, đóng góp tiền của, ngày công xây dựng chỉnh trang đô thị. "Những thành quả có được là sự đoàn kết của bà con, người cán bộ như tôi chỉ góp chút công sức nhỏ bé" - Chị Minh chia sẻ thêm. Bài học dựa vào dân, huy động sức dân theo gương Bác Hồ cũng chính là điều chị tâm đắc nhất khi chị làm công tác vận động xây dựng nông thôn mới, xây dựng, chỉnh trang đô thị và các phong trào chung trong Tổ dân phố.

Học và làm theo Bác tùy theo sức của mình

Với một cựu chiến binh, đồng chí Nguyễn Văn Oai, thôn Thái Bình, xã Quân Bình, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn luôn chủ động tham gia đóng góp nhiều ý kiến xây dựng các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương nói chung và thôn xóm nói riêng, nhất là các chính sách đối với hội viên, tích cực tham gia cùng với các ban ngành hòa giải thành 03 vụ việc về tranh chấp đất đai. Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, không chùn bước trước khó khăn, Cựu chiến binh Nguyễn Văn Oai đã bàn với gia đình tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế gia đình. Với số vốn trên 70 triệu đồng vay của ngân hàng cùng với vốn tự có của gia đình, đồng chí Oai đã đầu tư xây dựng nhà xưởng chế biến gỗ đóng đồ mộc, đầu tư máy chế biến bún sợi phục vụ nhân dân với tổng mức đầu tư ban đầu trên 150 triệu đồng; đồng thời gia đình vẫn tiếp tục duy trì nuôi 02 lợn nái móng cái. Đến nay, cơ bản gia đình đồng chí Oai đã hoàn trả xong phần vốn đầu tư ban đầu; thu nhập hằng năm của gia đình đạt trên 200 triệu đồng. Kinh tế ổn định, gia đình đồng chí đã có điều kiện mua sắm được đầy đủ các đồ dùng, tiện nghi sinh hoạt; đầu tư đầy đủ cho con cái học hành. Hàng năm gia đình anh còn tham gia đóng góp ủng hộ các loại quỹ từ thiện giúp đỡ những gia đình nghèo hộ có hoàn cảnh khó khăn, người gia cao tuổi trong thôn.... và thực hiện đầy đủ các khoản quỹ do địa phương phát động. Không chỉ phát triển kinh tế cho gia đình, mỗi năm anh còn tạo công ăn việc làm ổn định cho 3 - 4 hội viên Cựu chiến binh và người dân trong thôn lao động theo mùa vụ với mức lương từ 3,5 - 4 triệu đồng/người/tháng.

Đồng chí Nguyễn Văn Oai, thôn Thái Bình, xã Quân Bình, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn nhận Bằng khen của Tỉnh ủy

Học Bác từ những việc phù hợp với chuyên môn

Gắn bó với công tác Đoàn và phong trào thanh niên tại cơ sở lâu năm nên có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận các nội dung tuyên truyền về thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, anh Liên Chí Quang - Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phường 6. TP.HCM luôn nhận thức sâu sắc về ý nghĩ và tầm quan trọng của việc học tập và làm theo Bác.

Qua nghiên cứu học tập các chuyên đề, anh đã tự rút ra bài học cho bản thân và chia sẻ: “Học và làm theo Bác từ những việc làm nhỏ nhất, phù hợp với chuyên môn của mình để có thể phát huy thế mạnh, sở trường, đồng thời trong từng việc làm phải chú ý đến lợi ích của tập thể và nhân dân”. Vì thế, trong hoạt động triển khai đến đoàn viên thanh niên, anh luôn phát huy tinh thần của tuổi trẻ, theo lời dạy của Bác “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Từ năm 2011 đến nay, anh đã tham mưu Đảng ủy đề ra nhiều mô hình, giải pháp cụ thể để tập hợp thanh niên, cũng như góp phần thực hiện các chỉ tiêu của địa phương. Trong đó, có thể kể đến các giải pháp giúp thanh niên tiếp cận việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, gần gũi như: tổ chức biểu diễn các tiết mục văn nghệ ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức cho thanh thiếu nhi tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh, hội thi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác. Song song đó, phối hợp ban ngành, đoàn thể tổ chức lớp tìm hiểu chuyên đề học tập, làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo chuyên đề hàng năm và vận động cán bộ Đoàn, đoàn viên thanh niên tham gia; tổ chức ngày hội “Làm theo lời Bác” gắn với nội dung tuyên dương gương Cháu ngoan Bác Hồ tiêu biểu, tuyên dương gương Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác, triển lãm hình ảnh Bác Hồ với thanh niên đã thu hút gần 200 thanh thiếu nhi trên địa bàn tham gia.

Ngoài ra, anh đã xây dựng thành công các mô hình hỗ trợ thanh niên mưu sinh lập nghiệp, cụ thể: ra mắt Cửa hàng thanh niên, hỗ trợ thanh niên tiếp cận với các nguồn vốn vay làm kinh tế; phối hợp với ban ngành, đoàn thể thực hiện tốt mô hình 5 + 1 tham gia giúp đỡ, giáo dục, hỗ trợ người hồi gia, sau cai tái hòa nhập cộng đồng; xây dựng thành công phần mềm hướng dẫn thủ tục hành chính đã tạo điều thuận lợi cho nhân dân đến tra cứu thủ tục làm hồ sơ.../.

Bài 5: Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh đến triệu triệu người Việt Nam

Nhóm PV

Video liên quan

Chủ Đề