Giáo dục thể chất thể thao là gì

a/ khái niệm

GDTC là một loại hình giáo dục nên nó là một quá trình giáo dục có tổ chức có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kỹ sảo v.v… từ thể hệ này sang thế hệ khác. Điều đó có nghĩa là GDTC cũng như các loại giáo dục khác là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó [vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh, với nguyên tắc sư phạm v.v…].

GDTClà một hình thức giáo dục nhằm trang bị kỹ năng kỹ sảo vận động và những tri thức chuyên môn [giáo dưỡng], phát triển tố chất thể lực, tăng cường sức khoẻ [giáo dục thể chất].

Như vậy GDTC có thể chia thành hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác [giáo dưỡng thể chất] và giáo dục tố chất thể lực.

– Dạy học động tác là nội dung cơ bản của giáo dưỡng thể chất. Đó là quá trình trang bị những kỹ năng, kỹ sảo vận động cơ bản, cần thiết cho cuộc sống và những tri thức chuyên môn.

– Bản chất của thành phần thứ hai trong GDTC là tác động hợp lý tới sự phát triển tố chất vận động, đảm bảo phát triển các năng lực vận động [nhanh, mạnh,bền v.v…].

Như vậy GDTC là một loại giáo dục có nội dung đặc trưng là dạy học động tác và GD tố chất vận động của con người. Nhưng việc dạy học động tác và phát triển tố chất thể lực có liên quan chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau thậm chí có thể “chuyển ” lẫn nhau. Nhưng chúng không bao giờ đồng nhất và có quan hệ khác biệt trong các giai đoạn phát triển thể chất và giáo dục thể chất khác nhau.

Trong hệ thống giáo dục, nội dung đặc trưng của GDTC được gắn liền với trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động.

b/ Các nhiệm vụ của giáo dục thể chất.

* Nhóm nhiệm vụ GDTC theo nghĩa hẹp: Củng cố và tăng cường sức khoẻ, phát triển toàn diện cân đối hình thái chức năng cơ thể, phát triển tố chất vận động và khả năng hoạt đông thể lực của con người.

Nhóm nhiệm vụ này đảm bảo phát triển toàn diện các tố chất vận động và năng lực thể chất nói chung, hoàn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, phát triển duy trì lâu dài khả năng vận động và thể lực chung. Có thể nói rằng nhiệm vụ hàng đầu của GDTC là đảm bảo phát triển tối ưu ở mỗi cá nhân các tố chất vận động cơ bản cần thiết cho cuộc sống như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khả năng phối hợp vận động. Sự phát triển các tố chất vận động có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu và hoàn thiện kỹ sảo vận động cũng như chuẩn bị trình độ thể lực chung. Trên cơ sở giáo dục tố chất vận động có thể giải quyết được những nhiệm vụ nhất định về hoàn thiện hình thái cơ thể.

Trong hệ thống GDTC, nhiệm vụ hoàn thiện hình thái cơ thể cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì hoàn thiện hình thái cơ thể cũng có ảnh hưởng đến hoàn thiện chức năng. Nhưng việc hoàn thiện hình thể chỉ coi là đúng đắn, nếu sự tập luyện không vì mục đích tự thân mà vì mục đích phát triển con người toàn diện. Hoàn thiện hình thể có ý nghĩa phòng chữa, bệnh và chỉnh hình.

* Nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất: Hình thành và hoàn thiện kỹ năng kỹ xảo vận động quan trọng trong cuộc sống, kể cả kỹ năng kỹ xảo thực dụng và thể thao và trang bị những kiến thức chuuyên môn.

Chúng ta biết rằng muốn có trình độ chuẩn bị thể lực mà chỉ phát triển tố chất thể lực thì chưa đủ. Mặt khác, khả năng vận động của con người được bộc lộ trong các kỹ năng kỹ sảo vận động. Vì vậy nhiệm vụ giáo dưỡng thể chất phải được đặt ra.

Trong quá trình GDTC nhiều năm, nội dung cụ thể của nhiệm vụ giáo dưỡng ở các giai đoạn khác nhau phụ thuộc vào: Đặc điểm tâm sinh lý theo lứa tuổi, kinh nghiệm vận động mà con người đã tiếp thu được, năng khiếu cá nhân, đặc điểm hoạt động và nhiều nhân tố khác. Quy tắc chung ở đây là chuyển từ giáo dưỡng chung rộng rãi sang hoàn thiện sâu kỹ năng kỹ xảo chọn lọc trên cơ sở chuẩn bị thể lực toàn diện.

Một nội dung quan trọng của giáo dưỡng thể chất là trang bị tri thức chuyên môn. Ở đây muốn đề cập tới những kiến thức tiền đề cho việc tiếp thu những kỹ năng kỹ sảo vận động và những kiến thức có ý nghĩ xã hội của GDTC về bản chất của GDTC và những hiêu biết cần thiết cho sự tập luyện.

* Nhiệm vụ giáo dục theo nghĩa rộng: [hình thành nhân cách]

Giáo dục đạo đức ý chí góp phần xây dựng con ngươi phát triển toàn diện.

Giáo dục đạo đức dường như xuyên suốt thực tiễn của quá trình giáo dục nói chung cũng như quá trình GDTC nói riêng. Bởi vì hiệu quả cuối cùng của bất kỳ mặt giáo dục nào cũng phụ thuộc vào việc giải quyết nhiệm vụ hình thành lý tưởng, tiêu chuẩn đạo đức và thói quen đạo đức.

Việc tách lẻ riêng các nhiệm vụ trên chỉ là tương đối. Trên thực tế của quá trình GDTC bao giờ người ta cũng tiến hành giải quyết đồng thời các nhiệm vụ [như giáo dục đạo đức, ý chí, thẩm mỹ và trí tuệ v.v…].

c/ Mối quan hệ giữa TDTT [VHTC] và GDTC.

Nếu so sánh khái niện GDTC với khái niệm VHTC ta có thể  dễ dàng kết luận rằng chúng có những mối quan hệ chặt chẽ. Thông thường người ta coi GDTC là một bộ phận của VHTC. Nhưng chính xác hơn nó còn là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội và GDTC là hình thức cơ bản sử dụng những giá trị văn hoá thể chất trong hệ thống giáo dục.

Người ta nói GDTC là dòng kênh để chuyển giao những giá trị văn hoá thể chất của thế hệ này cho thế hệ khác. Đồng thời đó cũng chính là một trong những con đường làm tăng thêm giá trị văn hoá. Vì rằng thế hệ trẻ không tiếp thu một cách đơn giản những gì đã có trước đó. Khi tiếp thu chúng họ sẽ phát triển chúng lên và tiến tới những thành tựu mới.

GDTC là hiện tượng sư phạm của VHTC như vậy GDTC nó được tổ chức, gia cố và được nhà nước pháp quy đặc biệt thể hiện rõ GDTC ở trường phổ thông.

Mặc dù nhẹ Sự khác biệt giữa giáo dục thể chất và thể thao là điều hiển nhiên, có xu hướng là cả hai ngành thường bị nhầm lẫn. 

Và đó là cả hai song hành và có nhiều cuộc điều tra để xác định lợi ích của mỗi, cả riêng biệt và cùng nhau.

Các đánh giá khác nhau được thực hiện trong nhiều năm cho thấy tầm quan trọng của giáo dục thể chất trong hệ thống giáo dục, cũng như tầm quan trọng của thể thao trong cuộc sống của con người.

Cả hai đều có những đóng góp đáng kể về sự phát triển về thể chất, tình cảm, xã hội và nhận thức. Nếu có một điểm chung giữa hai ngành này là khả năng nâng cao khả năng nhận thức của một cá nhân. Nhưng cũng giống như có nhiều điểm tương đồng, sự khác biệt cũng vậy.. 

Hầu hết mọi người thường sử dụng cả hai thuật ngữ một cách bừa bãi, không đúng, là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Sự khác biệt chính giữa giáo dục thể chất và thể thao

1- Huấn luyện viên vs giáo viên

Vai trò của một huấn luyện viên thể thao rất khác với vai trò của một giáo viên giáo dục thể chất. Bởi vì trong khi huấn luyện viên là một chuyên gia trong một môn thể thao cụ thể, giáo viên thu thập một lượng lớn kiến ​​thức về các chủ đề thể thao khác nhau.

Vì vậy, trong giáo dục thể chất, giáo viên sẽ hướng đến việc dạy tất cả kiến ​​thức của họ cho cá nhân. Huấn luyện viên tập trung vào chỉ một môn thể thao.

Ví dụ, trong suốt một năm, một giáo viên giáo dục thể chất có thể dạy cho một nhóm học sinh 10 môn thể thao khác nhau, trong khi huấn luyện viên chỉ là một trong đó anh ta là một chuyên gia.

2- Đánh giá

Giáo dục thể chất thường xuyên đánh giá trẻ em với mục tiêu chính là giúp chúng hiểu, cải thiện và duy trì sức khỏe thể chất trong suốt cuộc đời của chúng.

Trong khi đó, các câu lạc bộ và đội thể thao đánh giá người chơi và người tham gia của họ để xem họ có đáp ứng các yêu cầu về thể chất ở cấp độ của môn thể thao họ chơi không.

Ngoài ra để xem liệu họ có đáp ứng khả năng của những người chơi khác cạnh tranh cho các vị trí hoặc vị trí tương tự trong đội không.

3- Năng lực cạnh tranh

Giáo dục thể chất là bắt buộc và không cạnh tranh, vì nó tập trung vào phát triển các kỹ năng cơ bản.

Tuy nhiên, môn thể thao này có tính cạnh tranh và có thể gây áp lực cho người chơi để có hiệu suất thể chất cao. 

Giáo dục thể chất là gì?

Giáo dục thể chất là một khóa học hoặc môn học tập trung vào phát triển thể lực và khả năng thực hiện và tận hưởng các hoạt động thể chất hàng ngày một cách dễ dàng.

Trong giáo dục thể chất, có thể được cung cấp từ trường mầm non, trẻ phát triển các kỹ năng cần thiết để tham gia vào một loạt các môn thể thao.

Các lớp học giáo dục thể chất thường xuyên chuẩn bị cho trẻ em hoạt động thể chất và tinh thần, khỏe mạnh và khỏe mạnh cho đến khi trưởng thành.

Một chương trình giáo dục thể chất hiệu quả nên bao gồm các bài học tham gia, giáo viên thể dục được đào tạo, thời gian giảng dạy phù hợp và đánh giá học sinh..

Giáo dục thể chất đã tồn tại từ thời cổ đại, nhưng phải đến vài trăm năm trước, thuật ngữ này [viết tắt là Phys ed hoặc PE, viết tắt của tiếng Anh] đã ra đời.

Công dụng được biết đến sớm nhất của nó đến từ một cuốn sách năm 1719 có tựa đề Những phản ánh quan trọng về thơ ca, hội họa và âm nhạc trong đó trích dẫn sau xuất hiện:

"Một số năm không thể thuận lợi hơn những năm khác để giáo dục thể chất cho trẻ em ...? "

Một vài thập kỷ sau khi những từ này được xuất bản, các phòng tập thể dục đã mở ra khắp châu Âu, đặc biệt là ở Đức, nơi các hiệp hội thể dục dụng cụ [hoặc Turnvereins] thúc đẩy sức khỏe thể chất, cũng như sự tham gia của công dân và làm giàu văn hóa..

Trong thế kỷ 19, các nhà giáo dục Mỹ đã áp dụng các phương pháp giảng dạy giáo dục thể chất của châu Âu, và cả từ giáo dục thể chất và hiện tượng mà nó đại diện đã trở thành hiện thực được thiết lập ở đất nước này..

Giáo dục thể chất giúp học sinh phát triển các kỹ năng thể chất và sự tự tin. Ví dụ, chương trình giảng dạy tiểu học và trung học bao gồm các hoạt động giúp trẻ có được và cải thiện các kỹ năng như chạy, bắt, ném và đánh, áp dụng cho các môn thể thao như bóng chày, bóng chuyền hoặc karate..

Chương trình giảng dạy ở trường trung học chuẩn bị cho học sinh có khả năng cao trong một hoặc nhiều hoạt động thể thao và / hoặc thể dục mà họ lựa chọn.

Các lớp giáo dục thể chất dạy các lợi ích sức khỏe của việc tập thể dục thường xuyên và lựa chọn thực phẩm lành mạnh cùng với các rủi ro không hoạt động và chế độ ăn uống kém.

Giáo dục thể chất cũng giúp học sinh phát triển các kỹ năng xã hội. Ví dụ, các môn thể thao đồng đội giúp họ học cách tôn trọng người khác, đóng góp cho mục tiêu của đội và hòa nhập với tư cách là thành viên hiệu quả của một đội.. 

Thể thao là gì?

Môn thể thao này có thể được xếp vào danh mục bất kỳ hoạt động nào đòi hỏi một số nỗ lực và kỹ năng thể chất để có thể thi đấu.

Hoạt động này có thể phát triển khi đối mặt với một cá nhân hoặc một nhóm. Thể thao có các quy tắc được xác định rõ ràng, được điều chỉnh thông qua các hiệp hội hoặc liên đoàn.

Môn thể thao này có nhiều người hâm mộ và khán giả, những người có thể ảnh hưởng đến người biểu diễn và thúc đẩy họ thi đấu tốt nhất.

Môn thể thao này đã tạo ra những ngôi sao nổi tiếng, bao gồm những cầu thủ bóng đá như David Beckham, Cristiano Ronaldo, Lionel Messi, v.v., những tay vợt như Novak Djokovic và Rafael Nadal và các vận động viên như Usain Bolt và Mo Farrah.

Bạn có thể quan tâm đến 10 lợi ích của việc luyện tập thể thao.

Tài liệu tham khảo

  1. William H. Freeman. [2013]. Giáo dục thể chất, thể dục và khoa học thể thao trong một xã hội thay đổi. Sách của Google: Nhà xuất bản Jones & Bartlett.
  2. Paul Beashel, John Alderson. [1996]. Nghiên cứu nâng cao trong giáo dục thể chất và thể thao. Sách của Google: Nelson Thornes.
  3. Richard Bailey. [15 tháng 9 năm 2006]. Giáo dục thể chất và thể thao trong trường học: Đánh giá lợi ích và kết quả. Tạp chí sức khỏe học đường, tập 76, trang 397-401.
  4. Richard Bailey. [19 tháng 1 năm 2007]. Đánh giá mối quan hệ giữa giáo dục thể chất, thể thao và hòa nhập xã hội. Tạp chí Giáo dục Tạp chí, Tập 57, Trang 71-90.
  5. Richard Bailey. [Ngày 15 tháng 9 năm 2006]. Giáo dục thể chất và thể thao trong trường học: Đánh giá lợi ích và kết quả. Ngày 13 tháng 6 năm 2017, bởi John Wiley và Sons Trang web: wiley.com.

Video liên quan

Chủ Đề