Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người trường Đại học luật Hà Nội

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘIKHOA LUẬT---0--NGUYỄN ĐĂNG DUNGVŨ CÔNG GIAO - LÃ KHÁNH TÙNG[Đồng chủ biên]Giáo trìnhLÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬTVỀ QUYỀN CON NGƯỜI[Dùng cho hệ cử nhân][Tái bản lần thứ hai có sửa đổi, bổ sung]Nhà xuất bản…Hà Nội: 20152TẬP THỂ TÁC GIẢChưon̛ g I, II, IV, V, VII: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS. Vũ Công Giao,ThS.Lã Khánh Tùng;Chưon̛ g III: PGS.TS.Vũ Công Giao, PGS.TS. Tươǹ g Duy Kiên, ThS.Lã KhánhTùng;Chưon̛ g VI: PGS.TS. Chu Hồng Thanh, PGS.TS. Vũ Công Giao, ThS.Lã KhánhTùng;Chưon̛ g VIII: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS.Phạm Hồng Thái, PGS.TS. VũCông Giao, PGS.TS. Tường Duy Kiên;Chưon̛ g IX: GS.TS.Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Chu Hồng Thanh, PGS.TS. VũCông Giao.Sửa đổi, bổ sung cho lần xuất bản thứ ba [tái bản lần thứ hai]PGS.TS Chu Hồng Thanh – PGS. TS. Vũ Công Giao – ThS NCS.Lã Khánh TùngBản đầu tiên của Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu của Khoa Luật Đại họcQuốc gia Hà Nội chấp thuận và thông qua ngày 03 tháng 9 năm 2009 là tài liệu sử dụngchính thức trong chưon̛ g trình giảng dạy của Khoa.Bản tái bản lần thứ hai đã được Hội đồng nghiệm thu của Khoa Luật Đại học Quốc giaHà Nội chấp thuận và thông qua ngày 11 tháng 8 năm 2015 để tiếp tục sử dụng là tài liệusử dụng chính thức trong chưon̛ g trình giảng dạy của Khoa.1MỤC LỤCTrang2CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁCHChữ viết tắtNghĩa đầy đủĐHĐĐại hội đồng [Liên hợp quốc]HĐBAHội đồng Bảo an [Liên hợp quốc]LHQLiên hợp quốcLuật BV,CS&GD trẻ emLuật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ emLuật HN & GĐLuật hôn nhân và gia đìnhHĐNDHội đồng nhân dânUBNDỦy ban nhân dânTANDTòa án nhân dânTANDTCTòa án nhân dân tối caoVKSNDViện kiểm sát nhân dânVKSNDTCViện kiểm sát nhân dân tối caoBLDSBộ luật Dân sựBLHSBộ luật Hình sựBLLĐBộ luật Lao độngBLTTHSBộ luật Tố tụng Hình sựBLTTDSBộ luật Tố tụng Dân sựLuật BCĐBQHLuật bầu cử đại biểu Quốc hộiLuật BCĐBHĐNDLuật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dânXHCNXã hội chủ nghĩaTBCNTư bản chủ nghĩaMTTQMặt trận Tổ quốcBộ LĐ, TB&XHBộ Lao động, Thương binh & Xã hộiBộ GD&ĐTBộ Giáo dục và Đào tạoHội LHPNVNHội Liên hiệp Phụ nữ Việt NamUDHRTuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, 1948 [UniversalDeclaration of Human Rights]CATCông ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vônhân đạo hay hạ nhục khác [Convention against Torture and Other Cruel,Inhuman or Degrading Treatment or Punishment]CEDAWCông ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ[Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination against3Women]CRCCông ước về quyền trẻ em [Convention on the Rights of the Child, CRC]ICCPRCông ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị [International Covenanton Civil and Political Rights - ICCPR]ICESCRCông ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa[InternationalCovenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR]ICERDCông ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử vềchủng tộc [International Convention on the Elimination of All Forms ofRacial Discrimination, ICERD]ICSPCACông ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác a-pác-thai [theInternational Convention on the Suppression and Punishment of the Crimeof Apartheid – ICSPCA]ICRMWCông ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả người lao động di trú vàcác thành viên trong gia đình họ [International Convention on theProtection of the Rights of All Migrant Workers and Members of TheirFamilies, ICRMW]ICRPDCông ước về quyền của những người khuyết tật [Convention on theRights of Persons with Disabilities, ICRPD]CPPCGCông ước của Liên hợp quốc về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng[United Nations Convention on the Prevention and Punishment of theCrime of Genocide – CPPCG]ICPPEDCông ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất tích, 2006[International Convention for the Protection of All Persons from EnforcedDisappearance]UNHRCHội đồng quyền con người Liên hợp quốc [The United Nations HumanRights Council]UNCHRUỷ ban quyền con người Liên hợp quốc [The United NationsCommission on Human Rights]HRCỦy ban quyền con người [Human Rights Committee]ICRCTổ chức Chữ thập đỏ quốc tế] [International Committee of the Red CrossRBACách tiếp cận dựa trên quyền [right-based approach]UPRCơ chế đánh giá định kỳ chung [Universal Periodic Review]OHCHRILOUNESCOVăn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người [Office of HighCommissioner for Human Rights]Tổ chức Lao động quốc tế [International Labour Organization]Tổ chức Giáo dục, khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc [United NationsEducational, Scientific and Cultural Organization]4UNDPChương trình phát triển Liên hợp quốc [United Nations DevelopmentProgramme]UNEPChương trình Môi trường Liên hợp quốc [the United Nations EnvironmentProgramme]UNHCRVăn phòng Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn [the United NationsRefugee Agency]ECOSOCHội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc [The United NationsEconomic and Social Council]UNICEFFAOQuỹ Nhi đồng Liên hợp quốc [the United Nations Children's Fund]Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc [the United NationsFood and Agriculture Organization]WHOTổ chức Y tế thế giới [World Health Organization]ICJToà án Công lý Quốc tế [International Court of Justice]UPRCơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể [Universal Periodic Review]OASHiệp hội các quốc gia châu Mỹ [the Organization of American States]OAUTổ chức thống nhất châu Phi [Organization of African Union ]AULiên minh châu Phi [African Union]SAARCHiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á [the South Asian Association forRegional Cooperation]ASEANHiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [the Association of Southeast AsianNations]AICHRỦy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền [ASEAN Intergovernmental Commission on Human Rights]NHRIsCác cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền [NationalInstitution on the Protection and Promotion of Human Rights]5LỜI NÓI ĐẦUQuyền con người là tiếng nói chung, mục tiêu chung của xã hội loài người. Tưtưởng, lý luận về quyền con người là giá trị nhân văn cao quý, tài sản vô giá củacộng đồng nhân loại. Pháp luật về quyền con người ghi nhận các tư tưởng và lýluận về quyền con người, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển tự do, nhân phẩm vàhạnh phúc của mỗi người, mỗi quốc gia và văn minh nhân loại.Lý luận và pháp luật về quyền con người chỉ rõ rằng quyền con người hiệndiện trong từng con người và trong cộng đồng xã hội, là tài sản chung, mỗi thànhviên trong cộng đồng nhân loại đều được hưởng thụ quyền con người một cáchbình đẳng, không phải là sở hữu riêng độc chiếm của một quốc gia hay nhómngười nào. Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, cả trong lý luận, pháp luật và thựctiễn, là nghĩa vụ và cần sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, tổ chức vàtừng cá nhân. Được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế kể từ sau Chiếntranh thế giới thứ hai, quyền con người hiện đã trở thành một hệ thống các tiêuchuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc dối với mỗi quốc gia, việc tôn trọng,bảo vệ các quyền con người trở thành thước đo căn bản về trình độ văn minh củacác nước và các dân tộc trên thế giới. Thực hiện các quy tắc xử sự và các chuẩnmực trong lĩnh vực quyền con người, nhân loại đang hướng tới xây dựng một “nềnvăn hóa nhân quyền”, trong đó kết hợp hài hòa những đặc thù và giá trị truyềnthống tốt đẹp của các dân tộc với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế được thừa nhậnchung về nhân phẩm và giá trị của con người.Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng, tư tưởng về quyền con ngườivà việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người không hề xa lạ hay mâu thuẫn với lýtưởng cộng sản, mà ngược lại, là cốt lõi, là bản chất của chủ nghĩa Mác. Ở ViệtNam, cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Hồ ChíMinh lãnh đạo từ đầu thế kỷ XX đến nay không có mục đích gì khác hơn là giànhvà giữ các quyền con người cho toàn thể dân tộc và cho mỗi người dânViệt Nam, góp phần gìn giữ hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Trong thực tế,quan tâm và thúc đẩy các quyền con người là quan điểm chính sách cơ bản củaĐảng và Nhà nước Việt Nam, được phản ánh rõ nét trong hệ thống chính sách,pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 cho thấy Hiến pháp ViệtNam là hiến pháp vì các quyền và tự do cơ bản của con người. Đảng cộng sản Việt6Nam xác định quyền con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp phát triểnđất nước.Do quyền con người có giá trị phổ quát và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽđến mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội nên nhu cầu kiến thức và pháp luậtvề quyền con người ngày cao, đối với mọi thành viên xã hội, ở mọi cấp độ. Dothiếu kiến thức về quyền, trong nhiều trường hợp người dân không biết cách tự bảovệ các quyền hợp pháp của mình hoặc hành động vi phạm các quyền và lợi ích hợppháp của người khác và của cộng đồng. Đối với các cơ quan, công chức, viên chứcnhà nước, thiếu kiến thức về quyền cũng dẫn đến thiếu ý thức trách nhiệm trongthực hiện công vụ, dẫn đến những hạn chế, sai sót trong xây dựng và thực thi phápluật, quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền con người, quyền công dân, từ đó tạora khoảng cách, mâu thuẫn, gây mất lòng tin của người dân với bộ máy côngquyền. Xã hội dựa trên nền tảng chủ quyền nhân dân và nhà nước pháp quyền thìmọi người đều cần hiểu biết về quyền của chính mình, tất cả các cấp học và trìnhđộ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân đều có nhu cầu phải được giáo dục vềquyền con người, người giữ trọng trách càng cao trong các tổ chức và trong xã hộithì càng phải am hiểu sâu sắc lý luận và pháp luật về quyền con người để hànhđộng vì các quyền và tự do cơ bản của con người.Trước thực tế đó, được sự phê duyệt của Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luậtđã đưa môn học Lý luận và Pháp luật về quyền con người vào các chương trìnhđào tạo từ năm 2007. Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người đượcbiên soạn để phục vụ nhu cầu giảng dạy và học tập môn học này của giảng viên vàsinh viên của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời có thể làm tài liệutham khảo hữu ích cho các cơ sở giáo dục đại học và các cơ sở đào tạo, nghiên cứukhác trong nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người.Quyền con người là một phạm trù đa diện, đòi hỏi cách tiếp cận và nghiên cứuđa ngành, liên ngành, song nghiên cứu luật học về quyền con người cần là hướngphát triển nghiên cứu chủ yếu, bởi vậy giáo trình này có tên gọi là “Giáo trình Lýluận và Pháp luật về quyền con người”. Phù hợp với tên gọi đó, bên cạnh khốilượng kiến thức trọng tâm là pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền conngười, giáo trình này còn tiếp cận một lượng kiến thức nhất định lý luận về quyềncon người của nhiều khoa học [triết học, chính trị học, xã hội học, khoa học lịchsử, chính trị học..] nhằm cung cấp cho người học sự hiểu biết toàn diện về vấn đềrất rộng lớn và phức tạp này.Giáo trình này được xuất bản lần đầu vào năm 2009 và đã được bổ sung, táibản năm 2011. Trong những năm vừa qua, pháp luật và thực tiễn quốc gia, khu vựcvà thế giới về quyền con người đã có một số thay đổi quan trọng, vì vậy Khoa Luậttiếp tục tổ chức tái bản có sửa đổi và cập nhật những kiến thức, thông tin mới7nhằm làm cho giáo trình trở nên hoàn thiện hơn. Hy vọng giáo trình Lý luận vàPháp luật về quyền con người tiếp tục đáp ứng được nhu cầu giảng dạy, học tập vànghiên cứu về quyền con người của giảng viên, sinh viên ở Khoa Luật Đại họcQuốc gia Hà Nội và nâng cao giá trị tham khảo cho các cơ sở giáo dục đại học vàcác cơ sở đào tạo, cơ quan nghiên cứu khác về quyền con người.Mặc dù đã có thời gian để được kiểm nghiệm và được đánh giá tốt trong quátrình sử dụng nhưng chắc chắn giáo trình này vẫn không tránh khỏi còn có nhữnghạn chế, thiếu sót. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội mong được tiếp thu và trântrọng cảm ơn những ý kiến góp ý chân tình của đông đảo nhà giáo, người học, nhànghiên cứu và bạn đọc để giáo trình này ngày càngđược hoàn thiện hơn nữa trongnhững lần tái bản sau.Tháng 8 năm 2015KHOA LUẬT8CHƯƠNG INHẬP MÔN LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬTVỀ QUYỀN CON NGƯỜI1.1. Bối cảnh, ý nghĩa và tầm quan trọng của nghiên cứu, giáo dục vềquyền con ngườiHiểu biết về quyền là điều kiện đầu tiên, không thể thiếu để có thể bảo vệ vàthúc đẩy các quyền con người trong thực tiễn một cách hiệu quả. Mọi tri thức khoahọc về các phương diện pháp lý, triết học, văn hóa, xã hội.. và nhận thức nói chungvề các quyền và tự do cơ bản của con người đều rất cần thiết cho việc hiện thựchóa các quyền. Cũng như bất kỳ dạng kiến thức nào khác của loài người, tri thứcvề quyền con người chỉ có thể được phổ biến và tiếp nhận thông qua các hình thứcgiáo dục. Tuy nhiên, có một thực trạng phổ biến đáng buồn đó là “có hàng triệungười sinh ra rồi chết đi mà không hề biết rằng họ là chủ thể của các quyền conngười…”.1 Thực trạng đó chỉ có thể khắc phục được thông qua giáo dục nâng caonhận thức của mọi người về quyền con người.2Do tầm quan trọng và vai trò của giáo dục trong việc nâng cao nhận thức vềquyền con người, khoản 3 điều 1 Hiến chương Liên Hiệp Quốc yêu cầu các quốc giathành viên phối hợp giải quyết các vấn đề về giáo dục, khuyến khích phát triển sự tôntrọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệtchủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo. Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyềncon người năm 1948, Liên hợp quốc đã khẳng định rằng, một trong các mục tiêu củagiáo dục là phải nhằm: “…thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của conngười” [Điều 26[2]]. Giáo dục quyền con người còn được đề cao trong nhiều vănkiện quốc tế khác của Liên hợp quốc như Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xãhội, văn hóa năm 1966 [Điều 13[1]], Công ước về quyền trẻ em năm 1989 [Điều29[1,b]] và đặc biệt là trong Tuyên bố Viên và Chương trình hành động được thôngqua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Viên [Áo] năm1993 [các đoạn 78-82]…Để thúc đẩy giáo dục nhân quyền trên thế giới, Liên hợp quốc đã phát động “Thập kỷ Giáo dục Nhân quyền” 1995-2004 [United Nations Decade for HumanRights Education 1995-2004].3 Năm 1978 Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dụcLiên hợp quốc [UNESCO] đã thiết lập “Giải thưởng Giáo dục Quyền con người”[Prize for Human Rights Education] trao cho các cá nhân, tổ chức có đóng góp lớnWolfgang Benedek [Chủ biên], Tìm hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp, 2008, tr.29.Xem thêm Vũ Thị Minh Chi, Ý thức về quyền con người trong việc xây dựng một xã hội lành mạnh, Tạp chíNghiên cứu con người, số 5[26], 2006, tr.27-36; Vũ Minh Chi, Nguyễn Anh Đào, Giáo dục quyền con người làgiáo dục tính chủ thể đối với quyền. Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5[38], 2008, tr.20-25.3Nguồn: //www2.ohchr.org/english/issues/education/training/decade.htm129trong việc truyền bá kiến thức, thúc đẩy giáo dục và nghiên cứu về quyền conngười, nay giải thưởng này đã được đổi tên thành “Giải thưởng cho việc Thúc đẩymột Nền văn hóa Quyền con người” [ Prize for the Promotion of a Culture ofHuman Rights]].4Mặc dù không có định nghĩa chung về giáo dục quyền con người, song qua cácvăn kiện quốc tế kể trên và Nghị quyết A/52/469 ngày 20-10-1997 của Đại hộiđồng Liên hợp quốc, có thể hiểu giáo dục quyền con người [human rightseducation] bao gồm những hoạt động giảng dạy, tập huấn và phổ biến thông tin vềquyền con người.15Việc trở thành thành viên của Liên hợp quốc, của Hội đồng nhân quyền Liênhợp Quốc và thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người đặt ra nghĩavụ cho Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trên lĩnh vực này, trongđó có nghĩa vụ về giáo dục, phổ biến, nâng cao nhận thức về quyền con người. Đểthực hiện cam kết này, trên thực tế, các quyền con người đã được giảng dạy thôngqua nhiều môn học ở nhiều cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam,đặc biệt kể từ thời kỳ đổi mới [1986] đến nay. Cụ thể, ở các cấp phổ thông, một sốnguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con người trong luật quốc tế đã được lồng ghépvào các môn học Đạo đức [cấp tiểu học] và Giáo dục công dân [các cấp trung họccơ sở và trung học phổ thông]. Trong giáo dục bậc cao, vấn đề quyền con ngườihiện đã được nghiên cứu, giảng dạy ở một số trường đại học chuyên ngành luật,triết học, khoa học chính trị, quan hệ quốc tế... với mức độ khác nhau.16Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Hiến pháp 2013 được thông qua,các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người ở Việt Nam đang pháttriển nhanh chóng cả về chiều rộng và bề sâu, nhiều cuộc hội thảo, tập huấn, tọađàm và sinh hoạt chuyên đề về quyền con người đã được tổ chức. Hiện tại, BộGiáo dục-Đào tạo đang nghiên cứu xây dựng chương trình giáo dục về quyền conngười trong hệ thống giáo dục quốc dân. Ở giáo dục bậc cao, ngày càng có thêmnhiều trường đại học, viện nghiên cứu đưa vào triển khai các chương trình, hoạtđộng nghiên cứu, hội thảo, hội nghị, tập huấn và giảng dạy về quyền con ngườidưới nhiều hình thức tổ chức và nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Sự phát triển đónhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong việc tìm hiểu về quyền conngười và yêu cầu thực tiễn vấn đề quyền con người đang được ứng dụng và có ảnhhưởng ngày càng lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, dân sự của xã hộiViệt Nam.Nguồn: //www.unesco.org.Nghị quyết A/52/469 ngày 20-10-1997 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, đoạn 11, tại//www.unhchr.ch/huridocda.61Xem Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Khái quát về giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay [Kỷ yếu Hộithảo Kết nối nghiên cứu về quyền con người do Bộ Ngoại giao tổ chức ngày 4-8-2008].451101.2. Mục tiêu của môn họcHiến chương Liên hiệp Quốc xác định giáo dục quyền con người nhằm phát triểnsự tôn trọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi người, khôngphân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo.Về cơ bản, mục tiêu của môn học“Lý luận và Pháp luật về Quyền con người” trùng hợp với mục tiêu về giáo dụcquyền con người do Liên hợp quốc xác định. TheoNghị quyết số A/52/469 ngày20-10-1997 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thì mục đích cuối cùng của giáo dụcvề quyền con người, dù được tiến hành ở bất cứ đâu, do bất cứ chủ thể nào, cũngnhằm để xây dựng một nền văn hóa nhân quyền [human rights culture]27 mà nềntảng của nó chính là những nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toànthế giới về quyền con người năm 1948. Theo José Ayala Lasso, Cao ủy đầu tiênvề quyền con người của Liên hợp quốc: “ Việc xây dựng một nền văn hóa nhânquyền trên thế giới là một trong những đóng góp quan trọng nhất cho các thế hệtương lai...Một nền văn hóa như vậy sẽ khiến quyền con người trở nên quan trọngtrong đời sống của các cá nhân giống như là ngôn ngữ, tập quán, nghệ thuật, tínngưỡng. Trong nền văn hóa này, các quyền con người không chỉ được nhìn như làcông việc “của người nào khác”, mà chính là nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cảmọi người.”18Về những mục tiêu cụ thể, theo Nghị quyết số A/52/469 ngày 20-10-1997 củaĐại hội đồng Liên hợp quốc, giáo dục quyền con người cần hướng vào việc29:[i] Tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người;[ii] Phát triển đầy đủ nhân phẩm và ý thức về nhân phẩm của con người;[iii]Thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung, bình đẳng giới và tình hữu nghị giữa cácquốc gia, các nhóm dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ;[iv] Tạo điều kiện cho tất cả mọi người tham gia một cách hiệu quả vào các hoạtđộng của xã hội, và[v] Hỗ trợ các hoạt động của Liên hợp quốc về duy trì hòa bình và an ninhquốc tế.Như vậy, thông qua việc cung cấp các kiến thức lý luận và pháp luật về quyềncon người, môn học này góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của các chủ thểtrong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người của bản thân từng người và củangười khác. Mặt khác, môn học này góp phần hình thành ý thức trách nhiệm củangười học, thông qua việc giáo dục những giá trị bình đẳng, khoan dung, nhân đạo,tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, chủng tộc72Nghị quyết A/52/469, tài liệu đã dẫn, đoạn 11.SGI Quarterly, //www.sgiquarterly.org/feature2008Oct-1.html92Nghị quyết A/52/469, đoạn 11.8111và các nhóm xã hội để hướng tới sựtồn tại và phát triển hòa bình của cộng đồng,của mỗi dân tộc và toàn nhân loại,1.3. Đối tượng và nội dung của môn họcVề đối tượng, môn học Lý luận và pháp luật về quyền con người tập trungnghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về các quyền và việc bảo vệ,thúc đẩy các quyền con người, cả ở phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.Về nội dung, giống như nhiều chương trình giảng dạy về quyền con ngườiđang được thực hiện ở nhiều cơ sở giáo dục đại học trên thế giới, môn học Lý luậnvà Pháp luật về quyền con người đề cập đến một số nội dung cơ bản như sau:- Khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền con người;- Lịch sử phát triển của tư tưởng về quyền con người;- Các tiêu chuẩn pháp luật quốc tế [toàn cầu và khu vực] về quyền con người;- Các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy bảo vệ quyền con người [ở cấp độ toàn cầu,khu vực và quốc gia ];Đồng thời, môn học này còn bao gồm một số chuyên đề như:- Nhận thức và lịch sử phát triển về quyền con người ở Việt Nam;- Pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam;1.4. Phương pháp luậnLà một môn khoa học xã hội ngành Luật học, môn học Lý luận và Pháp luật vềquyền con người sử dụng phương pháp luận chung của các chuyên ngành khoa họcxã hội nhưng có những đặc thù nhất định khi áp dụng. Cụ thể, môn học này ápdụng các phương pháp luậntriết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép duyvật lịch sử- phương pháp luận nền tảng và truyền thống của các bộ môn khoa họcxã hội ở Việt Nam.Theo triết học biện chứng duy vật thì nhận thức lý luận và pháp luật về quyềncon người được hình thành và phát triển theo một quá trình từ thấp đến cao, gắnliền và tương ứng với quá trình phát triển lịch sử của kinh tế, chính trị và nhà nước.Vận dụng phương pháp luận triết học biện chứng duy vật đòi hỏi xem xét và đánhgiá các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về quyền con người một cách kháchquan, toàn diện và phát triển, gắn với những bối cảnh lịch sử cụ thể. Liên quan đếnvấn đề này, một số công trình của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác như “Bànvề vấn đề Do Thái” [1843] của Các Mác, “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh” vàonăm 1844[1844] của Ăngghen…và nhiều tác phẩm kinh điển khác có thể coi là12những hình mẫu trong việc vận dụng phương pháp luận triết học biện chứng duyvật khi đề cập đến vấn đề quyền con người.110Cùng với phương pháp luận triết học biện chứng duy vật đang áp dụng ở ViệtNam, một số học thuyết, lý thuyết xã hội [social theories] khác cũng được đề cậpkhi nghiên cứu và giảng dạy theo giáo trình môn học này, trong đó tiêu biểu nhưthuyết duy lý [rationalism], thuyết cấu trúc [structuralism], thuyết văn hóa[culturalism], thuyết tự do [liberalism]…211 Về vấn đề này, quan điểm chung chorằng, quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó, việc nghiên cứu, giảng dạyvề quyền con người đòi hỏi cách tiếp cận đa ngành, liên ngành, tuy tiếp cận luậthọc là hướng chính. Tiếp cận liên ngành, đa ngành đòi hỏi nghiên cứu, giảng dạyvề quyền con người phải sử dụng không chỉ các kiến thức mà còn phương phápluận của một số chuyên ngành khoa học xã hội khác có liên quan như triết học, xãhội học, lịch sử, đạo đức học... Phương pháp luận tiếp cận đa ngành, liên ngànhnhư vậy cho phép bảo đảm tính lôgic, khoa học, toàn diện và thực tiễn của hoạtđộng nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người.1.5. Nguồn tư liệuDo có tính chất đa ngành, liên ngành nên nguồn tư liệu để nghiên cứu và giáodục về quyền con người rất phong phú. Tuy nhiên, tương ứng với các nội dung lớnlà lý luận, pháp luật và thực tiễn về quyền con người nên có ba loại nguồn tư liệucơ bản được sử dụng khi nghiên cứu và giảng dạy môn học này:Thứ nhất, các học thuyết, lý thuyết triết học, luật học, chính trị học, xã hội học,đạo đức học…chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về quyền con người. Nhữnghọc thuyết, lý thuyết này được thể hiện trong tác phẩm của các nhà tư tưởng nổitiếng của nhân loại và các nhà khoa học, đồng thời cũng được thể hiện trong các tàiliệu, thư tịch cổ, trong kinh sách, giáo lý của các tôn giáo lớn. Đây là những nguồnchính để nghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề lý luận về quyền con người.Thứ hai, những văn kiện pháp luật do các tổ chức quốc tế toàn cầu và khu vực[đặc biệt là Liên hợp quốc, ASEAN ] và các quốc gia ban hành trong đó chứa đựngnhững quy phạm pháp luật về quyền con người. Đây là những nguồn chính đểnghiên cứu và giảng dạy về những vấn đề pháp luật về quyền con người ở các cấpđộ khác nhau.Thứ ba, những báo cáo, thống kê, nghiên cứu…về tình hình bảo vệ và thúc đẩyquyền con người trên thế giới do các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, các chínhphủ, tổ chức phi chính phủ, các nhóm cộng đồng, các tòa án và các chuyên gia biênsoạn và công bố. Đây là những nguồn chính để nghiên cứu và giảng dạy về nhữngvấn đề thực tiễn về quyền con người.101112C.Mác – Ph.Ăngghen, Về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1998.Todd Landman, Studying Human Rights, Routledge, London & New York, 2006, tr.36-55.131.6. Tính chất đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu và giảng dạy vềquyền con ngườiNhư đã đề cập, quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó, việc nghiênNhư đã đề cập, quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó, việc nghiên cứu,giảng dạy về quyền con người đòi hỏi cách tiếp cận đa ngành, liên ngành. Hiện tạikhông chỉ luật học hay các ngành khoa học xã hội, mà cả các ngành khoa học tựnhiên cũng bắt đầu tiếp cận quyền con người dưới các góc độ, mức độ khácnhau.112Mặc dù vậy, một số ngành khoa học xã hội dưới đây có liên quan chặt chẽvà gần gũi hơn đến nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người.1.6.1. Luật họcCho đến gần đây, việc nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người trên thế giớicũng như ở Việt Nam phần lớn từ góc độ luật học. Các cuộc tranh luận về quyền conngười cũng chủ yếu liên quan đến pháp luật. Điều đó củng cố nhận định về tính chấtchi phối của tiếp cận luật học trong khoa học về quyền con người.Luật học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử của pháp luật, nội dung của các hệthống pháp luật hiện hành, các hình thức pháp lý của việc tổ chức, hoạt động củacác nhà nước; các biện pháp pháp lý trong việc quản lý và điều hành các hoạt độngxã hội… Luật học nói chung, các khoa học pháp lý chuyên ngành nói riêng xác lậpcác quy tắc cư xử chung để đảm bảo nhân phẩm và các quyền tự nhiên, chính đángcủa mọi cá nhân đều được tôn trọng, bảo vệ; cũng như xác lập các cơ chế, biệnpháp, chế tài để bảo đảm các quy tắc cư xử chung đó được thực hiện.Cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có [nguồn gốc tự nhiên] hay phảido các nhà nước quy định [nguồn gốc nhân tạo], thì việc thực hiện các quyền vẫncần có pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thểđược bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó,nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng nhữngquy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc vàthống nhất với cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy, quyền con ngườigắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý.Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cùng với quyền, tự do vànghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản ánh củacác hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhâncon người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộngđồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn cócủa cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong121Xem nghiên cứu gần đây của Edwin S. Fruehwald về Nền tảng sinh học của các quyền[A Biological Basis of Rights] [July 28, 2009], Hofstra University Legal Studies Research Paper No. 09-17, tạiSSRN: //ssrn.com/abstract=144024714việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Vai trò của pháp luật vớiquyền con người thể hiện ở những khía cạnh cụ thể như sau:- Pháp luật là phương tiện chính thức hoá, pháp lý hoá giá trị xã hội của cácquyền tự nhiên: Mặc dù được thừa nhận song thông thường các quyền tự nhiênkhông mặc định được áp dụng trực tiếp trong xã hội. Về nguyên tắc, các nhà nướctrên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý - tức những nhu cầu, lợiích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nhưvậy, chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyềncon người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiệnquá trình chuyển hoá đó. Nó có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức vềtôn trọng và thực hiện các quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý [hay các quytắc cư xử chung do nhà nước cưỡng chế thực hiện], từ đó xã hội hoá giá trị của cácquyền tự nhiên của con người.- Pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người:Như đã đề cập, chỉ khi được quy định trong pháp luật, việc tuân thủ và thực hiệncác quyền con người mới mang tính bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội. Ở đây,pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi cácquyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụcủa các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông quaviệc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế có liên quan.Thực tế cho thấy, tư tưởng đề cao pháp luật, coi pháp luật là phương tiện hữuhiệu để bảo đảm các quyền con người đã được khẳng định từ rất sớm. Từ nhiều thếkỷ trước Công nguyên, vị vua vĩ đại của của xứ Babylon là Hammurabi [1810 1750 TCN] đã tuyên bố rằng, mục đích của ông trong việc ban hành đạo mang tênmình là để “...ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức người yếu” 113. Vào thế kỷ thứ VItrước Công nguyên, một nhiếp chính quan La Mã là Arokhont Salon đã tuyên bố ýđịnh giải phóng cho tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kếthợp sức mạnh với pháp luật. Trong những giai đoạn sau này, tư tưởng đề cao phápluật với việc bảo đảm quyền con người cũng được phát triển bởi nhiều nhà tưtưởng nổi tiếng của nhân loại, và được minh chứng bằng sự ra đời của ngày càngnhiều các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế về các quyền và tự do của conngười, từ Đại Hiến chương Magna Carta [the Magna Carta, 1251], Bộ luật về cácquyền [the Bill of Rights, 1689] của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của conngười và của công dân [the Declaration of the Rights of Man and of the Citizen,131Bộ luật Hammurabi, Đoạn 226. Nguyễn Gia Phu dịch theo bản Trung văn của Nhật Trị in trong Thế giới sử tưliệu tùng san sơ tập; Xem thêm phân tích và bình luận về từng điều khoản của Bộ luật trong Nguyễn Anh Tuấn,Khảo lược Bộ luật Hammurabi của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2008.151789] của nước Pháp; Tuyên ngôn Độc lập [the Declaration of Independence,1776] và Bộ luật về các quyền [the Bill of Rights, 1789/1791] của nước Mỹ chođến Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hệ thống đồ sộhàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chứcquốc tế khác thông qua từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tất cả đã cho thấy vai trò khôngthể thay thế của pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người.Ở cấp độ toàn cầu, cho đến nay pháp luật quốc tế đã xác lập một hệ thống cácchuẩn mực quốc tế về quyền con người [international human rights standards] vàcác cơ chế quốc tế để bảo đảm các tiêu chuẩn đó được thực hiện trên thực tế. Luậtnhân quyền quốc tế [international human rights law] hiện đã được công nhận làmột ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế nói chung. 114 Ở cấp độquốc gia, tùy hoàn cảnh, điều kiện của mỗi nước, vấn đề quyền con người có thểđược đề cập bởi nhiều ngành luật, kể từ hiến pháp cho đến luật hình sự, dân sự, laođộng, hôn nhân gia đình...1.6.2. Chính trị họcChính trị học là chuyên ngành khoa học xã hội nghiên cứu về đặc điểm, tínhchất của quyền lực chính trị và những cách thức, biện pháp giành và giữ quyền lựcchính trị, việc chi phối và tổ chức quyền lực nhà nước. Với ý nghĩa là điểm xuất phátvà nhân tố trung tâm của chính trị học – quyền lực chính trị có quan hệ mật thiết vớiviệc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người và vai trò của nhà nước, xét cả trên phươngdiện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, mối quan hệ giữa quyền và tự do của cánhân với quyền lực của nhà nước là một trong những nội dung quan trọng trongnghiên cứu chính trị học. Về mặt thực tế, mục tiêu chính trị và tương quan quyềnlực chính trị là những yếu tố căn bản chi phối và quyết định phạm vi, mức độ bảođảm các quyền con người trong thực tế cả ở cấp độ quốc tế, khu vực và ở từngquốc gia.Việc xây dựng, thực thi pháp luật về quyền con người, cả ở phạm vi quốc giavà quốc tế, đều phụ thuộc vào tương quan lực lượng chính trị và tổ chức quyền lựcnhà nước. Ở cấp độ quốc tế, cuộc tranh cãi về hai nhóm quyền dân sự, chính trị vàkinh tế, xã hội, văn hóa trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã chứng minh rõ ràng điềuđó. Ở cấp độ quốc gia, bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách, pháp luật về quyềncon người ở một quốc gia đều phản ánh mức độ những nhu cầu về dân chủ, nhânquyền của nhân dân và áp lực chính trị mà cộng đồng dân chúng áp đặt lên giớicầm quyền để đòi hỏi đáp ứng những nhu cầu đó. Tất cả những yếu tố này đềuthuộc vào đối tượng nghiên cứu của khoa học chính trị. Như vậy chính trị học cung141Xem Antonio Cassese, International Law [Chapter 19] [second edition], Oxford University Press, 2005, tr.375398; Ian Brownlie, Principles of Public International Law [Chapter XXV] [fifth edition], Oxford University Press,1998, tr.557-606; G.I.Tukin [chủ biên], International Law [Chapter 13], Moscow Progress Publishers, 1986,tr.335-356.16cấp một khối lượng lớn tri thức và cách tiếp cận cho việc nghiên cứu quyền conngười dưới giác độ tổ chức quyền lực và quyền lực nhà nước.Ngay từ khi còn ở dưới dạng quan điểm, tư tưởng, quyền con người đã là mộtvấn đề ảnh hưởng, chi phối quan hệ chính trị, cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế.Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến từ thế kỷ XVIđến cuối thế kỷ XVIII đã chứng minh sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền con người vàchính trị. Mặc dù ở thời điểm bắt đầu của cuộc đấu tranh này, quyền con người chủyếu mới thể hiện dưới dạng những đòi hỏi về quyền công dân; tuy nhiên, ngay từthời điểm đó, quyền con người đã là một thứ vũ khí tư tưởng lợi hại, góp phầnquyết định giúp giai cấp tư sản lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến.Sau đó, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm củacuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng giữa hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩatrong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ngay từ khi quyền con người bắt đầu đượcpháp điển hóa trong luật quốc tế [kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai], vấn đềquyền con người đã bị "chính trị hoá" một cách sâu sắc và có hệ thống. 15 Từ khicuộc Chiến tranh Lạnh kết thúc cho đến thời điểm hiện nay, mặc dù mức độ "chínhtrị hoá" quyền con người đã ít nhiều giảm đi, tuy nhiên, đây vẫn là hiện thực khôngthể tránh khỏi và sẽ cùng tồn tại lâu dài trong các diễn đàn quốc tế về quyền conngười.Ngày nay, quyền con người đã trở thành một trong những vấn đề chính chiphối [trực tiếp hoặc gián tiếp] mạnh mẽ các quan hệ chính trị quốc tế ở mọi cấp độ,từ toàn cầu, khu vực đến song phương. Xét ở phạm vi quốc gia, từ lâu, các đảngphái chính trị trên thế giới đã nhanh chóng nhận thấy và nắm lấy quyền con ngườinhư một thứ vũ khí trong cuộc đấu tranh giành và giữ quyền lực nhà nước. Dânchủ và quyền con người trở thành các tiêu chí được dùng để đánh giá tính tiến bộ,phù hợp trong cương lĩnh tranh cử; trở thành cơ sở để các đảng phái phê phán, chỉtrích lẫn nhau; thậm chí trở thành một yếu tố quyết định sự tồn vong của một chínhthể, một người đứng đầu nhà nước hoặc một chế độ xã hội. Tại nhiều nước trên thếgiới hiện nay, quyền con người đã trở thành một trong các chủ đề trung tâm khôngchỉ trong cuộc đấu tranh quyền lực giữa các chính đảng, mà còn trong các chínhsách đối nội, đối ngoại của quốc gia.1.6.3. Triết họcTriết học là hệ thống các tư tưởng, quan điểm chung nhất của con người về thếgiới quan và phương pháp luận nhận thức thế giới. Triết học nghiên cứu nhằm tìmXem chi tiết về tác động của vấn đề ý thức hệ trong quá trình xây dựng Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyềntrong: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của nhân loại, Gudmundur Afredsson & AsbjornEide [chủ biên], bản dịch tiếng Việt của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Lao động – Xã hội, 2011.1517ra các quy luật phát sinh vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng của tựnhiên, xã hội và tư duy. Các nội dung cụ thể và cơ bản thuộc vào phạm vi nghiêncứu của triết học bao gồm: vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa chúng; quá trìnhnhận thức, mối quan hệ nhận thức và thực tiễn, vấn đề chân lý;các cặp phạm trù,quan hệ nhân quả, thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập …Triết học Mác-xítbao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và Phép duy vật lịch sử.Các khuynh hướng, trường phái, trào lưu triết học phương Đông, phương Tâyvà Triết học Mác-xít từ trước tới nay đều dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đềliên quan đến con người, bao gồm bản chất con người, quan hệ con người với thếgiới chung quanh [vũ trụ, nhân loại, cộng đồng, nhà nước…] 116, quan hệ nhà nướccá nhân và vấn đề quyền con người. Triết học là ngành khoa học xã hội giúp chúngta tìm hiểu về nguồn gốc, bản chất của quyền con người, về sự phát triển của cáckhuynh hướng tư tưởng về quyền con người trong lịch sử.Sự hình thành, phát triển của quyền con người, nhìn từ phương diện triết học,phản ánh quy luật phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Cụ thể, nó phảnánh quá trình phát triển mang tính quy luật trong nhận thức của loài người từnhững khái niệm sơ khai nhất về công bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm chođến những tư tưởng, học thuyết và những quy phạm pháp lý về quyền con người.Quyền con người từ lâu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu với những tưtưởng, học thuyết được phát triển bởi nhiều nhà triết học nổi tiếng. Những tư tưởngtriết học về quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và các quyền pháp lýlà nền tảng lý luận cho việc pháp điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốcgia và quốc tế, cũng như trong việc bảo đảm thực hiện các quyền này trên thực tế.Một đóng góp quan trọng nữa của triết học với khoa học về quyền con người thểhiện ở chỗ triết học cung cấp phương pháp luận cơ bản cho nghiên cứu và giảngdạy về quyền con người.1.6.4. Văn hóa họcVăn hóa học nghiên cứu về văn hoá như một chỉnh thể, một hình thái ý thức xãhội đặc biệt tồn tại dưới các hình thức vật thể và phi vật thể. Văn hóa là yếu tố gắnliền với đời sống tinh thần, tâm lý và lịch sử xã hội nên thường tồn tại lâu dài, cótính liên tục.Ở mọi xã hội, văn hóa xuyên suốt và chi phối tất cả các quan hệ trong đời sốngcủa cư dân, của cá nhân và cộng đồng, trong đó có quan hệ pháp luật, thể chế và cảnhận thức, hành động về quyền con người. Đây chính là lý do khách quan pháttriển quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng vì các quyền và tự do cơ bản củacon người, nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn tới một số bất đồng, thậm chí161S.E.Frost, Những vấn đề cơ bản của triết học, Nxb Từ điển Bách khoa, H., 2008; Lý Trấn Anh, Nghiên cứu triếthọc cơ bản, NXB Trí thức, 2007.18xung đột trong nhận thức và thực hiện các quyền con người ở một vài nơi trên thếgiới. Một mặt các quyền con người có tính tự nhiên và phổ quát với tất cả cácthành viên của cộng đồng nhân loại trong một nền văn hóa chung của thời đại,nhưng mặt khác mỗi cá nhân con người lại sống trong những nền văn hóavớinhững tín ngưỡng, tôn giáo và tập quán riêng, nhiều khi khi có một số nội dungvăn hóa rất khác nhau. Sự khác biệt về văn hóa, thể hiện ở sự khác biệt về truyềnthống, phong tục, tập quán, nhận thức và lối sống, niềm tin, quan niệm đạo đức...dẫn tới những cách hiểu và áp dụng khác nhau với các quyền con người được thừanhận chung. Định hướng những giá trị của tất cả mọi nền văn hóa trên thế giới vàomột mục tiêu chung là bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, hoặc nói như Liênhợp quốc, để xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền’’ chung của toàn nhân loạiđã và đang là một chủ đề lớn, rất hấp dẫn nhưng đầy thách thức với các nhà nghiêncứu. Tuy nhiên, khi nào mà mối quan hệ giữa sự khác biệt về văn hóa và tính phổquát của quyền con người còn là chủ đề của các cuộc tranh luận trên thế giới, thìkhi đó những tri thức về văn hóa vẫn còn hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất quantrọng trong nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người.1.6.5. Xã hội học và tôn giáo họcXã hội học nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội, các hiện tượng, quá trìnhdiễn ra trong đời sống xã hội, sự biến đổi, vận động của các quy luật xã hội và cáchthức tổ chức các hoạt động xã hội. Tất cả những nội dung này, ở những mức độkhác nhau, đều có ảnh hưởng, tác động trực tiếp đến quyền con người, đến việc xáclập và thực thi các tiêu chuẩn pháp lý và đạo đức về quyền con người, quyền côngdân. Kiến thức và các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của xã hội học là khôngthể thiếu để có thể tìm hiểu tác động của các quy phạm về quyền con người trongthực tiễn, thấy được những thiếu hụt của các chế định pháp lý về quyền, mức độcác quyền pháp lý được áp dụng hay bị vi phạm. Đặc biệt, các chuyên ngành hẹpcủa xã hội học như xã hội học đô thị, xã hội học nông thôn, xã hội học về giới,công tác xã hội .v.v.. giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về những yêu cầu và mức độbảo đảm các quyền của những nhóm đối tượng cụ thể và việc tham gia hoạt độngxã hội của con người trong những bối cảnh và phạm vi cụ thể.Những ý niệm đầu tiên về quyền con người có lẽ được nảy sinh từ quan niệmvề các chuẩn mực đạo đức - cách thức đối xử giữa người với người trong xã hội mà vốn có và hiện còn trong văn hóa truyền thống của hầu hết dân tộc trên trái đất.Cụ thể, ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều lưu truyền những quy tắc ứng xử, coiđó là những quy luật vàng, kiểu như: nếu muốn người khác đối xử với mình nhưthế nào thì hãy đối xử với người khác như thế; ác giả, ác báo hoặc gieo gì gặtnấy...Rõ ràng, ẩn chứa trong nội hàm của các quy luật vàng này là yêu cầu tôntrọng các quyền, tự do chính đáng và tự nhiên của người khác.19Những quy tắc đạo đức hàm chứa những ý tưởng về quyền con người như vậysau đó được đúc kết, khái quát, bổ sung và phát triển trong giáo lý của các tôn giáo.Sức mạnh đức tin của các tôn giáo đó biến các ý tưởng về quyền con người trởthành những quy phạm đạo đức - tôn giáo được tuân thủ rộng rãi ở nhiều xã hội,trong đó đề cao và cổ vũ tình yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự dovà nhân phẩm - những yếu tố nền tảng của quyền con người.Nhìn tổng thể, trong suốt quá trình phát triển của quyền con người, kể cả khicác quyền con người đã được pháp điển hóa trong pháp luật quốc gia và quốc tế,nó vẫn bị các phạm trù đạo đức và tôn giáo chi phối. Sự chi phối đó không phải lúcnào cũng bộc lộ rõ ràng mà nhiều khi lặng lẽ, ẩn tàng nhưng rất sâu sắc. Nói cáchkhác, trong suốt tiến trình phát triển của nó, quyền con người luôn phản ánh vàmang nặng dấu ấn của các giá trị và quy tắc đạo đức, tôn giáo.1.6.6. Sử họcSử học nghiên cứu những tri thức về quá khứ của xã hội và của tự nhiên. Lýluận và pháp luật về quyền con người hiện nay là sự kết tinh của sự vận động tưtưởng và xã hội của loài người trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, vì vậy tri thứcvà phương pháp nghiên cứu đặc thù của sử học là rất cần thiết để tìm hiểu về tiếntrình phát triển của các tư tưởng, quan điểm về quyền con người, sự hình thành vàphát triển của các quy phạm, các cơ chế bảo vệ quyền…Khi tiến trình phát triểnnày được soi sáng thông qua sử học thìLý luận và pháp luật về quyền con ngườimới có thể tiếp tục củng cố và bồi đắp các giá trị chung về các quyền, nhân phẩmvà tự do của con người và sự phát triển văn minh nhân loại.Nhìn từ góc độ lịch sử và xã hội, quyền con người bắt nguồn từ các quan hệ xãhội, là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong lịch sử.Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quanniệm khác nhau về các quyền, tự do và nghĩa vụ, cũng như những quy phạm và cơchế khác nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.Lịch sử loài người thực chất là một quá trình phấn đấu không ngừng để tồn tạivà nâng cao các tiêu chuẩn sống, trong đó bao gồm việc phấn đấu để xác lập vàbảo vệ những giá trị tự do, bình đẳng, công bằng và nhân phẩm cho tất cả các cánhân thành viên của cộng đồng nhân loại. Theo dòng lịch sử, ảnh hưởng và tácđộng của quyền con người ngày càng mở rộng, từ ý niệm, tư tưởng đến các quytắc, quy phạm và cơ chế; từ cấp độ cộng đồng đến cấp độ quốc gia, khu vực vàquốc tế. Trong suốt quá trình phát triển này, quyền con người luôn mang nhữngdấu ấn về chính trị, kinh tế, văn hoá của từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của xãhội loài người.201.6.7. Kinh tế họcKinh tế học nghiên cứu sự vận động của các quan hệ kinh tế, chủ yếu là cácquan hệ sản xuất, phân phối, tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Sự đóng góp của kinhtế học với khoa học về quyền con người trước hết thể hiện ở chỗ, các điều kiện,mức độ phát triển kinh tế có liên quan trực tiếp đến việc ghi nhận và bảo đảm thựchiện quyền con người, không chỉ các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa,mà cả các quyền chính trị, dân sự. Ngược lại, quyền con người là điều kiện tiềnđề, không thể thiếu để có sự phát triển ổn định các quan hệ kinh tế. Quan hệ giữakinh tế học và khoa học về quyền con người là cách tiếp cận quyền con người[rights-based approach] đang được áp dụng một cách phổ biến trong các chươngtrình phát triển kinh tế, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.Tóm lại, quyền con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội và đòihỏi rất cao về tri thức liên ngành. Khi nghiên cứu, giảng dạy Lý luận và Pháp luậtvề quyền con người, mặc dù lấy luật học làm hướng tiếp cận và nội dung chính,vẫn rất cần áp dụng những tri thức và phương pháp luận của nhiều ngành khoa họckhác, làm cho kết quả nghiên cứu, giảng dạy về quyền con người trở nên toàn diệnvà có sức thuyết phục. Tiếp cận liên ngành là thuộc tính bản chất của bộ môn khoakhọc Lý luận và Pháp luật về quyền con người.21Chủ đề thảo luận Chương I1. Vìsao cần nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người? Mục tiêu của giáo dụcquyền con người là gì?2. Cầnhiểu như thế nào về phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành trong họctập, nghiên cứu và giảng dạy về quyền con người?3. Vìsao luật học là hướng tiếp cận chính trong nghiên cứu và giảng dạy về quyềncon người?4. Bìnhluận về trách nhiệm của nhà nước phải bảo đảm để nền giáo dục “hướngđến thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do căn bản của con người” [Tuyênngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và Tuyên bố Viên và Chươngtrình hành động năm 1993].5 Phân tích vì sao khát vọng tự do, dân chủ, công bằng là nhu cầu tự nhiên,bẩm sinh, vốn có của con người, nhưng việc thực hiện quyền con người vàthực hành dân chủ trong thực tiễn lại đòi hỏi phải được giáo dục?Tài liệu tham khảo của Chương I1.Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 [trong Giới thiệu các vănkiện pháp lý quốc tế về quyền con người, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,2011].2.Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 [trong Giới thiệu các vănkiện pháp lý quốc tế về quyền con người, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,2011].3.Tuyên ngôn về giáo dục và đào tạo về nhân quyền của Liên Hợp quốc[9/12/2011], www.nhanquyen.vn4.C.Mác – Ph.Ăngghen, Về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.5.Wolfgang Benedek [Chủ biên], Tìm hiểu về quyền con người, Nxb Tư pháp,2008.6.Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người,Giáo trình Lý luận về quyền con người [dùng cho hệ cử nhân], Hà Nội, 2002.7.Phạm Minh Hạc và Hồ Sỹ Quý [Chủ biên], Nghiên cứu con người: Đối tượngvà những hướng chủ yếu, Nxb Khoa học Xã hội, 2001.228.Chu Hồng Thanh, Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con người, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.9.Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Khái quát về giáo dục quyền con người ở ViệtNam hiện nay [trong Kỷ yếu Hội thảo Kết nối nghiên cứu về quyền con ngườido Bộ Ngoại giao tổ chức ngày 4-8-2008].10.Võ Khánh Vinh [Chủ biên], Giáo dục quyền con người – Những vấn đề lý luậnvà thực tiễn, NXB Khoa học xã hội, 201011.Vũ Thị Minh Chi, Ý thức về quyền con người trong việc xây dựng một xã hộilành mạnh, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5[26], 200612.Vũ Minh Chi, Nguyễn Anh Đào, Giáo dục quyền con người là giáo dục tínhchủ thể đối với quyền.Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5[38], 2008.13.S.E.Frost, Những vấn đề cơ bản của triết học, Nxb Từ điển Bách khoa, H.,2008;14.Lý Trấn Anh, Nghiên cứu triết học cơ bản, NXB Trí thức, 2007.15.Adam Gearey, International Protection of Human Rights, UniversityLondon, 2006.16.HURIGHTS OSAKA, Human Rights education in the School Systems inSoutheast Asia - Cambodia, Indonesia, Lao PDR and Thailand, 2009.17.Todd Landman, Studying Human Rights, Routledge, London & New York,2006.18.Todd Landman, Protecting Human Rights: A Comparative Study, GeorgetownUniversity Press, Washington, D.C, 2005.19.United Nations, The UN Decade for Human Rights Education, 1995-2004:Lessons for Life, Geneva, OHUNCHR, 1998.20.Nancy Flowers, “What is Human Rights Education?” trong A Survey of HumanRights Education, Bertelsmann Verlag, 2003.21.Wolfgang Benedek, Human Sercurity and Human Rights Education, ETC,2002.22.Edwin S. Fruehwald, A Biological Basis of Rights [July 28, 2009], HofstraUniversity Legal Studies Research Paper No. 09-17.23.Antonio Cassese, International Law [Chapter 19] [second edition], OxfordUniversity Press, 2005.24.Ian Brownlie, Principles of Public International Law [Chapter XXV] [fifthedition], Oxford University Press, 199823of

Video liên quan

Chủ Đề