Hình thức của văn học trung đại

VHTĐVN tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỷ nhưng không bao giờ tách rời khỏi cảm hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự. Được chia thành các giai đoạn:   + Giai đoạn văn học Lý- Trần [Từ TK XI đến TK XIV] + Giai đoạn văn học đời Lê [TK XV] + Giai đoạn văn học từ TK XVI đến nửa đầu TK XVIII + Giai đoạn văn học từ nửa sau TK XVIII đến nửa đầu TK XIX + Giai đoạn văn học nửa cuối TK XIX [Văn học yêu nước chống Pháp]

Văn hóa Ðại Việt, văn chương Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc.   Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm như dân tộc Việt Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quang Trung chống giặc Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại được tiến hành trong trường kỳ lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nước.   Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cường, khát vọng chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học dân tộc.   Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hưng thịnh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc, nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát triển không ngừng.   Các tác phẩm văn học yêu nước thời kỳ này thường tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu như:   - Tình yêu quê hương - Lòng căm thù giặc - Ý thức trách nhiệm - Tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc - Ý chí quyết chiến, quyết thắng - Ðề cao chính nghĩa của người Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.

Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng phát triển chung của văn học nhân loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo như:   - Khát vọng hòa bình - Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia giai cấp - Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến. - Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động - Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.

- Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Trong tình hình cụ thể của VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân sau:   + Sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nước phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu bành trướng, đồng hóa của kẻ thù phương Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc.   + Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thường dễ xa lại với quần chúng bình dân, tác phẩm ít được truyền tụng rộng rãi. Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ. Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có văn học dân gian là nhân tố tích cực nhất.   Quá trình kế thừa, khai thác VHDG là một quá trình hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ VHDG bắt đầu từ thơ ca Nguyễn Trãi về sau [Thời Lý- Trần, việc tiếp thu nguồn VHDG chưa được đặt ra đúng mức].   + Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ, chủ yếu là khía cạnh ngôn ngữ và thể loại.   + Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng phát triển [Những tác động trở lại của văn học viết đối với văn học dân gian.

- Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau:   + Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xưa, nước ta và các vùng phụ cận đã có sự giao lưu văn hóa nhưng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu là từ Trung Quốc sang.   + Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi sự bành trướng văn hóa và nhất là âm mưu đồng hóa của kẻ thù. Những tên quan lại phương Bắc sang đô hộ Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét tài nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học thuyết triết học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách khéo léo và thâm hiểm.   + Khi nhà nước phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu mực nào khác hơn là nhà nước PK TQ đã tồn tại trước đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lợi dụng các học thuyết triết học như một công cụ đắc lực trong việc củng cố ngai vàng, thống trị nhân dân.   - Các học thuyết Nho - Phật - Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam thời Trung đại đã chú ý khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn lịch sử.

Ngay từ khi được các nhà văn mạnh dạn đưa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng khẳng định vị trí của mình bên cạnh chữ Hán vốn đã có ảnh hưởng sâu sắc trong văn học thời Lý Trần.   Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao, biểu hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ ngôn ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù.   Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chưa được phổ biến.  

Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đưa chữ Nôm vào sáng tác văn học. Thơ ông tuy chưa được trau chuốt nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Thành công của Nguyễn Trãi chính là tiền đề cho con đường phát triển của văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện Kiều.

Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính quan phương chủ yếu là công cụ của nhà nước phong kiến. Mặt khác, những đặc thù trong tư duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn đến một thực tế là các tác phẩm văn xuôi hình tượng chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn so với các tác phẩm thơ ca.   Thể thơ thường sử dụng nhất trong VHTÐ là thơ Ðường luật. Ðây là hệ quả của quá trình giao lưu văn hóa lâu dài và nằm trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển. Trong thời kỳ này, thơ Ðường luật đã được chính quy hóa trong văn chương trường ốc và văn chương cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất kỳ một tập thơ nào thời trung đại là một điều dễ hiểu.   Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðường luật với tư cách là một thể thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng tác đã gây không ít trở ngại trong nội dung thể hiện do bị chi phối bởi sự ngặt nghèo của luật thơ chặt chẽ.   Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật Ðường biến thể thành thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, độc đáo, phóng khoáng, rất phù hợp với cách nghĩ, cách nói, tâm lý của dân tộc nên được một số nhà thơ đời sau tiếp tục sử dụng [Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm].

Ðể miêu tả, người ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã được mặc nhiên chấp nhận sử dụng. Quan điểm ước lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính chất mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân tích các hình ảnh ước lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không có lý, đúng hay không đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh khơi gợi của hình tượng có sâu sắc hay không, hình tượng có được dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện được tư tưởng tình cảm của nhà thơ hay không.  

Văn học trung đại Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi suốt hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại đã phản ánh được đất nước Việt, con người Việt, đồng thời là ý thức của người Việt về tổ quốc, dân tộc. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước vĩ đại của dân tộc, đồng thời lại là sức mạnh tham gia vào quá trình đấu tranh này. Chính từ văn học trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại.

Văn học trung đại là một chủ đề bao quát, chủ yếu gồm các hoạt động sáng tác và phê bình những tác phẩm truyền lại bằng văn bản hoặc trí nhớ, tập trung ở giai đoạn trọng yếu nhất trong lịch sử nhân loại. Căn bản thời kì văn học này tính từ hậu Công Nguyên đến trước thềm cách mạng công nghiệp[1].

Văn học thời kì này được coi là dài nhất và cũng nhiều thành tựu nhất trong tiến trình lịch sử văn học. Đó là sự trưởng thành của các tác phẩm từ tông giáo đến thế tục, từ thiêng liêng cao cả đến dâm đãng chất phác. Tuy nhiên, điều đáng kể là nó đóng góp lớn cho sự phát triển của chất liệu sáng tác và phê bình [chủ yếu là giấy], sự phong phú phức tạp của ngôn ngữ và thể loại mà ngay cả hậu kì hiện đại cũng không phát huy được bằng[2]

Ngày nay, trong học giới có hai luồng định vị thế nào là văn học trung đại:

  • Trong không gian Âu châu cùng một phần Trung Đông và Bắc Phi, văn học trung đại [tiếng Anh: Medieval literature] được xác định từ sự kiện Đế quốc Tây La Mã cáo chung, tương ứng thế kỷ V sau Công Nguyên, tới thời điểm xuất hiện trào lưu văn nghệ phục hưng - thế kỷ XIV[3][4]. Riêng tại Đông Âu kéo dài thêm chút là sau thời kì Mông Cổ xâm nhập, hoặc tại Nga là khi triều Romanov thành lập.
  • Tại phần Đông Á châu, văn học trung đại [tiếng Trung: 中世紀文學] lại chia thành hai luận điểm: Từ đầu thế kỷ XX, khi bổ chú lại hệ thống tác phẩm cổ điển, giới phê bình Á Đông tạm coi văn học trung đại tiên khởi từ sự kiện Tào Ngụy Minh Đế soán ngôi triều Hán, tương ứng thế kỷ III sau Công Nguyên, và bản thân Minh Đế cũng là thi nhân và phê bình gia lừng danh; thời điểm kết thúc văn học trung đại nhìn chung được chấp nhận là sự kiện Cách mạng Tân Hợi, hoặc khi Nhật Bản thôn tính Triều Tiên; một quan điểm cực đoan hơn thì coi là sự kiện Nhật-Nga chiến tranh. Kể từ thập niên 1990, trong giới phê bình Á Đông và học giả Tây phương chuyên nghiên cứu văn học Á châu thì coi thời kì văn học Tùy-Đường mới bắt đầu văn học trung đại.
  • Tại tiểu vùng Ấn Độ, văn học trung đại [tiếng Bengal: মধ্যযুগীয় সাহিত্য] được nhận định từ thời kì Gupta [thế kỷ IV sau Công Nguyên] đến khi Đế quốc Sikh cáo chung [thế kỷ XIX].
  • Tại Trung Đông và Phi châu, văn học trung đại [tiếng Ả Rập: أدب القرون الوسطى‎] gắn liền với thời hoàng kim của đạo Islam, khi văn nghệ Arab gây ảnh hưởng sang mọi nền văn minh khác. Thời kì văn học này xuất phát từ năm 610 sau Công Nguyên [năm 1 lịch Hồi giáo] cho đến thời điểm Đế quốc Ottoman nhượng vị cho chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, tức năm 1923.
  • Tại Việt Nam, quan niệm học giới trước cải cách gọi văn học trung đại [Hán Nôm: 中代文學] là thời kì văn học phong kiến quân chủ[5] để đối lập với thời kì dân chủ tự do của Tự Lực văn đoàn và các phong trào văn nghệ do Việt Minh phát động. Kể từ thập niên 1990, trong các giáo trình và luận văn khoa học, văn học trung đại bắt đầu từ sự kiện Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán hoặc khi Đinh Tiên Hoàng xưng đế, tương ứng thế kỷ X, đến thời điểm triều Nguyễn kí Hòa ước Patenôtre - cuối thế kỷ XIX. Cũng có quan điểm hẹp hơn coi mốc kết thúc là năm 1900, khi Đế quốc thực dân Pháp ban hành chính sách khai thác thuộc địa.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Văn học trung đại.
  • Văn học cổ điển
  • Văn học kị sĩ
  • Sĩ lâm triết học

  1. ^ The Medieval and Classical Literature Library
  2. ^ Buringh, Eltjo; van Zanden, Jan Luiten:"Charting the “Rise of the West”: Manuscripts and Printed Books in Europe, A Long-Term Perspective from the Sixth through Eighteenth Centuries", The Journal of Economic History, Vol. 69, No. 2 [2009], pp. 409–445 [416, table 1]
  3. ^ Green, D.H."Women Readers of the Middle Ages". Cambridge University Press, England. ISBN 978-0-52187-9422
  4. ^ McDonald, Nicola. " Women Readers in the Middle Ages [review]"
  5. ^ Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

  • Văn học trung đại Việt Nam - vài nét đặc thù
  • Phân tích đóng góp văn học trung đại Việt Nam
  • So sánh văn học hiện đại và trung đại
  • Sự thể hiện con người trong văn học trung đại Việt Nam
  • Hình ảnh con người trong văn học trung đại Việt Nam
  • Việt nho qua một số tác phẩm văn học trung đại
  • Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam
  • Không gian nghệ thuật trong thơ trung đại Việt Nam
  • The Labyrinth: Resources for Medieval Studies
  • The Internet Medieval Sourcebook Project
  • Medieval and Renaissance manuscripts, Vulgates, Books of Hours, Medicinal Texts and more, 12 - 17th century, Center for Digital Initiatives, University of Vermont Libraries
  • Luminarium: Anthology of Middle English Literature
  • Medieval Nordic Literature at the Icelandic Saga Database

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Văn_học_trung_đại&oldid=66275796”

Video liên quan

Chủ Đề