Khi nói nên hay không nên nói hết lòng như cách của người Nghệ Tĩnh

[HBĐT] - Xa quê, gặp nhau dù chưa quen nhưng biết cùng quê đều có tình cảm dễ gần thân thương với nhau. Tình đồng hương sao mà thiêng liêng, sâu lắng. Đồng hương trên mảnh đất này có nhiều nhưng mỗi đồng hương có sắc thái riêng, đặc trưng riêng, đều đáng quý, đáng trên trọng và cũng đáng học tập.

Đồng hương quê tôi là những tỉnh bắc miền Trung, Nghệ An, Hà Tĩnh, nơi đồng chua, nước mặn, đất cằn sỏi đá. Con người ở quê tôi nhọc nhằn trong mưa bão, mảnh đất chưa mưa đã lũ, chưa nắng đã hạn. Con người mưu sinh hết sức gian lao, từ gian lao đó, con người quê tôi đứng lên trong khí hậu khắc nghiệt, trong nghèo nàn để học hành, bươn trải.

Tính tình con người quê tôi bộc trực, có lúc dễ mất lòng. Huy Cận đã nói: ăn xứ Nghệ ăn mặn/ Đã nói, nói hết lòng

Đất này bền nghĩa bạn/ Đất này tình thủy chung.

Nghệ Tĩnh, mảnh đất của hai tỉnh vốn có truyền thống, cùng chng một cội nguồn, chung tiếng nói, chung thổ âm. Nguồn sông Lam, sông La vẫn âm vang câu hò ví dặm. Ví dặm - hát đò ngang, hát đối phường vải đã khởi nguồn từ xa xưa Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đến Phan Bội Châu. Dân ca ví dặm với người dân quê tôi ngọt ngào, tha thiết, lãng mạn, trữ tình nói lên cái tình, cái nghĩa của con nười Nghệ Tĩnh. Dân ca ví dặm vì lẽ đó đang được đề nghị Unesco công nhận là văn hóa phi vật thể.

Về sông Lam, sông La lại liên tưởng đến bài hát đêm đò đưa nhớ Bác, phải chăng chính dân ca ví dặm đã nâng bước chàng trai yêu nước đi khắp bốn bể, năm châu để rồi sau này giữa mạc tư khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh.

Đồng hương Nghệ Tĩnh ra đời đầu năm 1989, lúc hai tỉnh còn  sát nhập gọi là tỉnh Nghệ Tĩnh, đến nay vừa tròn 25 năm. Nghệ Tĩnh mang tiếng dân “chặt to, kho mặn”, “ăn to, nói lớn” nhưng đi đâu, đồng hương Nghệ Tĩnh vẫn nặng mối ân tình.

Quê choa [tôi] tương nhút mặn mà

Chè xanh uống đọi [bát] đậm đà tình quê.

Ai về Nghệ Tĩnh cùng về

Gừng cay, muốn mặn không hề nhạt phai.

Nói vậy để tự hào truyền thống quê hương, quê hương Xô Viết rợp bóng cờ hồng, quê hương Bác Hồ.

Yêu quê, gìn giữ bản sắc quê hương là phải tận lòng vun vén, xây đắp nơi mình ở. Đất nào ở lâu rồi cũng hóa quê hương và cám ơn mảnh đất đã nuôi dưỡng, tác thành không những phần đời mình mà cả con cháu để lớn lên, học hành, công tác rồi đóng góp vào nơi mình ở quê hương thứ hai ân tình, nặng nghĩa. Đó là tấm lòng, bản ngã của những nhân cách thủy chung. Đừng như con bướm “đậu rồi lại bay” phải có ý thức làm người công dân tốt trên quê hương thứ hai.

Đồng hương Nghệ Tĩnh kỷ niệm 25 năm thành lập, người đồng hương mô, tê, răng, rứa thì đông không kể thế hệ con cháu trên địa bàn thành phố đã có hàng mấy trăm người nhưng vẫn còn nghèo. Giàu, nghèo nói như cha ông còn có phận, miễn là sống trong sạch, sống nghĩa tình. Trước hết giữ truyền thống đồng hương Nghệ Tĩnh là phải xây dựng mỗi gia đình đạt gia đình văn hóa, mỗi công dân chấp hành nghiêm luật pháp. Phải xây dựng mỗi gia đình là một tổ ấm vì ở đó sẽ có những lời nói dễ thương và những tấm lòng nhân hậu. Con cháu thành người cũng từ cái nôi của gia đình mà gia đình đồng hương ta nguồn gốc xứ Nghệ, nơi ngày xưa có ông đồ, ông nghè, ông cử vì nghèo đi thi phải dầm cá gỗ trong nước mắn thế mà đỗ đạt nên người.

Vì vậy, đồng hương Nghệ Tĩnh truyền thống mảnh đất “địa linh nhân kiệt” hãy dạy cho con, cháu làm điều lành, điều tốt để sưởi ấm tâm hồn con trẻ, nếu mà bày cho con làm điều ác, điều xấu thì tự nó sẽ thiêu trụi gia đình.

Để đồng hương xứ Nghệ toát lên được như nhà thơ Huy Cận đã có thơ:

Tình xứ Nghệ không mau/ Nhưng bén rồi sâu lắng

Quen xứ Nghệ quen lâu/ Càng tình sâu nghĩa nặng

Vài lời tâm sự nôm na vừa là kỷ niệm, vừa là mừng xuân. Xin chúc đồng hương mãi là quê hương giàu lòng xứ Nghệ.

                                                           Tản văn của Văn song

Đây là đề soạn theo cấu trúc cũ, các em vào link này để cập nhật những đề thi mới nhất nhé :
Xem thêm :Tuyển tập bộ đề đọc hiểu ôn thi THPT Quốc gia ngữ văn
Xem thêm : Bộ đề thi thử THPT Quốc gia môn văn có đáp án
Xem thêm :Tổng hợp những đề thi về các tác phẩm trọng tâm lớp 12
Câu 1 [2.0 điểm]
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:

“…Ai đi vô nơi đây

                                       Xin dừng chân xứ Nghệ
                                       Ai đi ra nơi đây
                                       Kịp dừng chân xứ Nghệ
 
                                       Nghe câu vè ví dặm
                                       Càng lắng lại càng sâu
                                       Như sông La chảy chậm
                                       Đong bao thuở vui sầu
 
                                       Ăn, xứ Nghệ ăn đặm
                                       Đã nói, nói hết lòng
                                       Đất này bền nghĩa bạn
                                       Đất này tình thủy chung…”

                                         [Gởi bạn người Nghệ Tĩnh – Huy Cận]

a.      thể thơ được sử dụng trong đoạn thơ trên

b.     Nêu ngắn gọn nội dung của đoạn thơ.

c.      Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng những biện pháp tu từ gì?

d.     Trên là một đoạn thơ giàu tính nhạc, hãy chỉ ra những yếu tố tạo tính nhạc cho đoạn thơ trên.

Câu 2 [3.0 điểm]
     “ Wilma Rudolph sinh ra trong một gia đình rất nghèo ở bang Tennessee  – Mỹ. Cô là đứa con thứ 20 trong một gia đình 22 anh chị em [bố cô hai đời vợ], sinh thiếu tháng và rất yếu ớt. Năm lên bốn, cô bé bị mắc cùng lúc hai chứng bệnh là viêm phổi và ban đỏ dẫn đến chân trái bị tê bại. Cô  phải mang một cái nẹp bằng sắt ở chân, cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn bên chiếc giường. Năm lên chín, cô gái được phép bỏ chiếc nẹp và chập chững những bước đi đầu tiên. Trong bốn năm, cô đã luyện được những bước dài và nhịp nhàng, đây được xem là một điều diệu kì trong y học. Mười ba tuổi, cô bắt đầu tham gia chơi bóng rổ và sau đó trở thành cầu thủ nhà nghề cấp liên bang. Rồi cô được chọn vào đội điền kinh nữ, tuy vậy trong các cuộc thi, cô đều về cuối. Mọi người nói cô nên từ bỏ nhưng cô vẫn tiếp tục theo đuổi ước mơ, cho đến một ngày cô giành được chiến thắng. Năm 1960, cô tham gia vào thế vận hội Olympic Rome và giành được 3 Huy chương vàng.”

                                      [Trích Những câu chuyện cuộc sống]

        Từ câu chuyện trên, anh /chị hãy viết một bài văn với chủ đề: nghị lực trong cuộc sống.
Câu 3 [5.0 điểm]
Cảm nhận của anh / chị về vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “ vợ nhặt  “của Kim Lân.

Đáp án

Câu 1

a

Thể thơ được sử dụng trong đoạn thơ trên là thể thơ ngũ ngôn [5 chữ] 0.5

b

Nội dung của đoạn thơ: Niềm tự hào của tác giả Huy Cận về vẻ đẹp của xứ Nghệ: dân ca ví dặm – nét văn hóa tinh thần độc đáo và đặc biệt là con người Nghệ Tĩnh: thẳng thắn, tình nghĩa, thủy chung. 0,5

c

Các biện pháp tu từ được sử dụng:-         Điệp cú pháp:    + Ai đi vô nơi đây                             Ai đi ra nơi đây                          + Đất này bền nghĩa bạn
                                Đất này tình thủy chung
–         Điệp ngữ:        xứ Nghệ
–         So sánh:          Nghe câu vè ví dặm…Như sông La chảy chậm
 0.25  

0.25

d

Những yếu tố tạo tính nhạc cho đoạn thơ trên:-         Thể thơ ngũ ngôn-         Nhịp thơ linh hoạt: 3/2; 1/4; 2/3 tạo âm điệu dìu dặt cho đoạn thơ.-         Biện pháp lặp cú pháp cũng có tác dụng tạo âm hưởng, nhạc tính cho đoạn thơ. –         Gieo vần chân ở cuối câu.

–         Đoạn thơ mang âm hưởng dân ca.

0.5
Câu 2
– Giới thiệu vấn đề nghị luận 0.25
1. Giải thích ý nghĩa của câu chuyện Câu chuyện của Wilma Rudolph gợi suy nghĩ về tấm gương những con người có ý chí nghị lực phi thường, không bao giờ chịu đầu hàng số phận. Wilma Rudolph đã vượt lên hoàn cảnh bất hạnh của bản thân không chỉ để trở thành con người bình thường mà còn trở thành con người xuất chúng.2. Vai trò của ý chí nghị lực trong cuộc sống- Thứ nhất, ý chí nghị lực tạo cho ta bản lĩnh và lòng dũng cảm. Người có ý chí và nghị lực là người luôn đương đầu với mọi khó khăn thử thách, là người dám nghĩ , dám làm, dám sống.- Thứ hai, ý chí nghị lực giúp chúng ta khắc phục những khó khăn và thử thách, rèn cho ta niềm tin và thúc đẩy chúng ta luôn hướng về phía trước, vững tin vào tương lai.- Thứ ba, ý chí nghị lực giúp con người ta luôn tự tin về bản thân, tự tin với công việc mình làm. Dù thất bại vẫn vui vẻ và khắc phục lại chứ không hề nản chí.3. Bàn luận, mở rộng vấn đề. – Trong cuộc sống, có không ít người gặp phải hoàn cảnh bất hạnh [do bẩm sinh, do tai nạn, bệnh tật…]. Nhiều người trong số đó đã vươn lên không ngừng, tự khẳng định mình “tàn nhưng không phế”. [Có thể liên hệ thêm đến những con người có cùng cảnh ngộ: Nguyễn Ngọc Kí, Nick Vujicic…] – Câu chuyện của Wilma Rudolph và nhiều người khác gợi suy nghĩ: + Sự khâm phục, ngưỡng mộ với những con người giàu ý chí, nghị lực trong cuộc sống. + Không có khó khăn nào mà con người không thể vượt qua, điều quan trọng là cần phải có ý chí nghị lực, có hoài bão ước mơ, có tình yêu với cuộc sống.

– Phê phán một bộ phận không nhỏ [nhất là thanh niên] sống không có nghị lực, ý chí, ước mơ hoài bão.3. Liên hệ bản thân và rút ra bài học.

0.5 1.0                     1.0

0.25

Câu 3 Cảm nhận về vẻ đẹp người vợ nhặt trong tác phẩm “vợ nhặt” của Kim Lân 5.0
Mở bài – Giới thiệu tác giả, tác phẩm- Giới thiệu vấn đề nghị luận 0.5
Thân bài * Giới thiệu về người vợ nhặt:  Là nạn nhân của nạn đói: không tên, không tuổi 0.25
* Hoàn cảnh gặp Tràng:– Lần đầu:  Thị đẩy xe cho Tràng với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
– Lần thứ hai thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: “áo quần tả tơi”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn phá dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên: “chao chát”,“chỏng lỏn”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
0.5
* Vẻ đẹp của người vợ nhặt 2.75
 – Người “vợ nhặt” có một lòng ham sống mãnh liệt. Lòng ham sống, khát vọng sống đã thôi thúc thị đồng ý theo Tràng. Hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. 0.75
–  Người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều: + Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Thị ngượng nghịu: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách che nửa khuôn mặt”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu về nhà chồng.

+ Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường [“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ]. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ [chào đến hai lần]. Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng.

1.0
–  Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa.+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng [đoàn người đi phá kho thóc của Nhật]
1.0
* Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Cũng qua hình ảnh người vợ nhặt và nhan đề độc đáo ấy, Kim Lân đã góp tiếng nói lên án, tố cáo tội ác của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ, thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào họ cũng biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng đến tương lai. 0.5
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính… 0.5

[Tài liệu sưu tầm ]

đề thi thử THPT quốc gia ngữ văn

Video liên quan

Chủ Đề