Một số cuộc cách mạng xã hội

Ảnh tư liệu minh họa

“Ngôi sao chỉ đường” cho cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu và là cột mốc đánh dấu thời đại mới trong lịch sử loài người, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại làm chủ của người lao động và quần chúng cần lao, xây dựng một chế độ không còn áp bức, bóc lột vì hạnh phúc của đông đảo nhân dân. Chính vì vậy, trong quá trình tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, từ bài học của cuộc Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định vai trò chỉ đường, dẫn lối của Cách mạng Tháng Mười đối với cách mạng Việt Nam, đối với việc thực hiện mục tiêu xây dựng chế độ vì hạnh phúc của nhân dân: “Kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười, những thành tựu của Liên Xô là ngôi sao chỉ đường cho chúng tôi trong sự nghiệp xây dựng một cuộc đời hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam”[1].

Cho dù sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu có làm chậm tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới nhưng không thể đảo ngược được xu thế đi lên chủ nghĩa xã hội ở phạm vi toàn cầu. Ðảng khẳng định theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kiên định mục tiêu xây dựng một chế độ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, kiên định xây dựng chế độ làm chủ của nhân dân ở nước ta không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là xu thế tất yếu khách quan: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên quyết thực hiện đường lối đổi mới và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[2].

Một trong 5 quan điểm chỉ đạo do Ðại hội XIII của Ðảng chỉ ra là: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -  Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Ðảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Ðảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[3]. Vì vậy, kiên định mục tiêu này là kiên định con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng đã lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười.

Cuộc cách mạng của lòng dân

Có sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là rất cần thiết và quan trọng nhưng chưa đủ mà cần tập hợp, tổ chức và vận động được nhân dân ủng hộ và tham gia đường lối của Ðảng. Vì vậy, xây dựng được đội quân chính trị và vũ trang hùng hậu từ quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, thực hiện các nhiệm vụ của cuộc cách mạng cũng là một bài học quan trọng làm nên thành công của Cách mạng Tháng Mười.

Xác định được tầm quan trọng của quần chúng nhân dân đối với sự thành công của cách mạng, Ðảng Bônsêvích xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Ðảng lúc này là đấu tranh giành đa số giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân, thành lập  đội quân chính trị đông đảo và đủ sức lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản, cô lập và đánh bại các đảng thỏa hiệp Mensêvích và xã hội cách mạng. Vì vậy, những người Bônsêvích đã kiên trì đi vào quần chúng công nhân và nhân dân để giáo dục, vận động và tập hợp quần chúng ủng hộ Ðảng và tích cực thực hiện khẩu hiệu của Ðảng. Ðảng nhận thức được rằng chỉ có thông qua đấu tranh, hoạt động cách mạng và tổ chức mới có thể giáo dục và tuyên truyền cho quần chúng.

Cách mạng Tháng Mười thành công vì nó là một cuộc cách mạng có tính chất nhân dân sâu sắc, là sự nổi dậy của đông đảo quần chúng dưới khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp lại” không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo hay thành phần dân tộc. Thành công của cách mạng là do: “Dưới ánh sáng của Luận cương, Ðảng Bônsêvích đã tập hợp đội ngũ toàn Ðảng, xây dựng thành công một đội quân chính trị ngày càng đông đảo và đủ sức đánh bại các thế lực chống đối, tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng 10”[4].

Lê-nin đã nhiều lần nhấn mạnh về sức mạnh của quần chúng, của việc tập hợp lực lượng đối với sự thành công của cách mạng: “Chúng ta đã giành được đa số trong giai cấp đứng làm đội tiền phong của cách mạng, đội tiền phong của nhân dân và có khả năng lôi cuốn quần chúng theo mình. Chúng ta đã giành được đa số trong nhân dân... Thắng lợi chắc chắn thuộc về chúng ta”[5]; “Công nhân Nga có lẽ sẽ không thể giành được chính quyền từ tay giai cấp tư sản nếu không được cảm tình và tín nhiệm của những quần chúng bị áp bức ở miền ngoại vi nước Nga”[6].

Việt Nam đang gặt hái được nhiều thành công trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vì chúng ta đã tin tưởng và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Lê-nin từng khẳng định: “...Cái ngày vĩ đại ấy càng cách xa chúng ta, thì ý nghĩa của cuộc cách mạng vô sản ở Nga càng trở nên rõ rệt, chúng ta cũng càng suy nghĩ sâu về toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn của công tác của chúng ta”[7]. Những kinh nghiệm mà cuộc cách mạng này đã để lại cho Việt Nam: “Ði theo con đường do Lê-nin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam  đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại... là vô cùng sâu sắc”[8].

Theo Nhân dân điện tử

 [1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T.11, tr.180
[2] Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011,  tr. 21
[3] Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H, 2021, T.2, tr.324
[4] Lê-nin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977,T. 3, tr.81
[5] Lê-nin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, T. 34, tr.324
[6] Lê-nin, Stalin: Về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, Nxb Sự thật, H, 1967,tr. 230
[7] Lê nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 44, tr.179
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 15, tr.397

Nghiên cứu học thuyết mác-xít về cách mạng xã hội sẽ giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi bằng cách nào mà một kiểu nhà nước này được thay thế bằng một kiểu khác trong lịch sử. Đồng thời, ta cũng có thêm nhiều luận cứ để nhận diện thời đại chúng ta đang sống ngày hôm nay.

I. Khái niệm, bản chất và vai trò của cách mạng xã hội

1. Khái niệm, bản chất của cách mạng

Cách mạng xã hội” có thể được hiểu theo hai tầng nghĩa như sau:

– Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế – xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn.

Cách hiểu này áp dụng cho tổng thể xã hội nói chung, không giới hạn riêng ở một lĩnh vực nào.

– Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.

Cách hiểu theo nghĩa hẹp áp dụng cho riêng lĩnh vực chính trị ở một thời kỳ nhất định.

Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng luôn là việc giành chính quyền. Bởi vì, chỉ khi nào giành được chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

– Ta cần phân biệt giữa “cách mạng xã hội” với “tiến hóa xã hội”, “cải cách xã hội” và “đảo chính”:

 Nó cũng là hình thức phát triển của xã hội. Nhưng khác với cách mạng, đây là quá trình diễn ra một cách tuần tự, dần dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.

Song, tiến hóa xã hội và cách mạng xã hội thống nhất biện chứng với nhau ở chỗ:

Cách mạng chỉ trở thành tất yếu lịch sử khi những tiền đề của nó được tạo ra nhờ tiến hóa xã hội. Ngược lại, cách mạng  mở đường cho tiến hóa như là những quá trình kế tiếp nhau không ngừng trong sự phát triển của xã hội.

Sự biến đổi này cũng tạo nên sự thay đổ về chất nhất định trong đời sống xã hội. Nhưng nó khác về nguyên tắc với cách mạng ở chỗ: Cải cách xã hội chỉ tạo nên những biến đổi riêng lẻ, bộ phận trong khuôn khổ một chế độ xã hội đang tồn tại.

Cải cách xã hội có ý nghĩa thúc đẩy quá trình tiến hóa tạo tiền đề dẫn tới cách mạng.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, trong các chế độ xã hội có đối kháng giai cấp, phần lớn những cải cách là kết quả của phong trào đấu tranh của lực lượng tiến bộ, và trong những hoàn cảnh nhất định, chúng trở thành những bộ phận hợp thành cách mạng.

Dạng hoạt động này là thủ đoạn giành quyền lực nhà nước do một cá nhân hoặc một nhóm người thực hiện nhằm xác lập một chế độ xã hội có cùng bản chất.

Đảo chính không động đến chế độ xã hội và không phải là phong trào cách mạng của quần chúng, nên đảo chính khác hoàn toàn với cách mạng.

2. Nguồn gốc, nguyên nhân của cách mạng xã hội

Xét đến cùng, nguyên nhân của cách mạng là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Điều đó được luận giải như sau:

Lực lượng sản xuất luôn không ngừng phát triển, khi nó phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ, vốn tương ứng phù hợp với nó, trở nên lỗi thời, không phù hợp nữa, và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

“Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.

– Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng [đại biểu cho lực lượng sản xuất mới] với giai cấp thống trị.

Bọn thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng công cụ nhà nước với nhiều phương tiện bạo lực trong tay, để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời.

Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, và nhằm giải phóng mình, giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, phải giành lấy chính quyền nhà nước.

Đến giai đoạn này, cách mạng xã hội tất yếu phải xảy ra.

Đó là đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp và là bước nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội có giai cấp. Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Một góc quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội sau khi Cách mạng tháng Tám – 1945 thành công. Ảnh: Internet.

3. Vai trò của cách mạng xã hội

– Các cuộc cách mạng có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có cách mạng mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, thay thế hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn.

Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Trong thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ, như C. Mác đã nói: Cách mạng là đầu tàu của lịch sử.

– Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ, rõ nét vai trò của cách mạng xã hội qua 04 cuộc cách mạng đưa nhân loại trải qua 05 hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau:

+ Cách mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội nguyên thủy lên hình thái chiếm hữu nô lệ;

+ Cách mạng chuyển từ chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến;

+ Cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa;

+ Cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa.

– Cuộc cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng mới về chất.

Nếu tất cả các cuộc cách mạng trước chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng triệt để con người. Đó là sự chuyển biến sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại.

4. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng

– Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết hai mâu thuẫn sau:

+ Mâu thuẫn kinh tế giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất;

+ Mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột.

Mỗi một cuộc cách mạng đều có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn nhất định, xóa bỏ một chế độ xã hội nhất định và xác lập một chế độ mới nhất định.

Ví dụ:

+ Cách mạng ở Pháp năm 1789 là cách mạng tư sản vì giai cấp tư sản và các tầng lớp lao động do giai cấp tư sản lãnh đạo đã thực hiện nhiệm vụ lật đổ giai cấp địa chủ phong kiến, xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư bản.

+ Cách mạng tháng 8 năm 1945 ở nước ta có nhiệm vụ giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản lúc đó là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp [và tay sai] và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, với địa chủ phong kiến.

Xét về nhiệm vụ giải quyết, Cách mạng tháng 8 – 1945 mang tính chất dân chủ tư sản. Nhưng với điều kiện cụ thể tại Việt Nam, cách mạng dân chủ tư sản tất yếu gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, Cách mạng tháng 8 mang tính chất của một cuộc “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”.

– Tính chất và nhiệm vụ của một cuộc cách mạng xã hội quy định lực lượng và động lực cách mạng.

+ Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển.

Lực lượng cách mạng còn do cả những điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi cuộc cách mạng quyết định. Có những cuộc cách mạng cùng một kiểu, nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong nước và trên thế giới khác nhau, nên có những lực lượng cách mạng khác nhau.

+ Động lực của cách mạng là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, động lực của cách mạng cũng thay đổi.

– Vai trò lãnh đạo trong cách mạng thuộc về giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại. Đó là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại.

Ví dụ: Giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng tư sản, giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng vô sản.

II. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội

1. Điều kiện khách quan

Cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra, việc giành chính quyền chỉ trở thành nhiệm vụ trực tiếp, khi đã có những điều kiện khách quan cần thiết đã chín muồi tạo thành tình thế cách mạng.

Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội dẫn tới những đảo lộn trong nền tảng kinh tế – xã hội, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc khiến cho việc thay thế thể chế chính trị đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn như là một thực tế không thể đảo ngược.

– Vận dụng vào cách mạng vô sản, V. I. Lênin đã nêu ra 03 đặc trưng chủ yếu của tình thế cách mạng:

+ Một là: Giai cấp thống trị lâm vào khủng hoảng chính trị, bộ máy nhà nước của chúng suy yếu nghiêm trọng, mở đường cho sự bất bình, phẫn nộ trong các giai cấp bị áp bức.

+ Hai là: Nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường.

+ Ba là: Do những nguyên nhân nêu trên, tính tính cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt, họ bị cuộc khủng hoảng chính trị đẩy đến chỗ đòi hỏi phải có hành động lịch sử độc lập.

– Nếu chưa có những điều kiện khách quan cho một cuộc cách mạng thì không có một nỗ lực nào của người cách mạng có thể đem đến thắng lợi.

Nhưng một khi điều kiện khách quan đã chín muồi, thì vận mệnh của một cuộc cách mạng lại hoàn toàn tùy thuộc vào nhân tố chủ quan, và khi đó nhân tố chủ quan là chủ đạo.

2. Nhân tố chủ quan

– Muốn cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi, ngoài tình thế cách mạng, còn phải có sự chín muồi của nhân tố chủ quan và sự kết hợp đúng đắn giữa điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan.

– Sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng biểu hiện ở:

+ Trình độ cao của tính tổ chức;

+ Mức độ quyết tâm đến đỉnh điểm của giai cấp cách mạng sẵn sàng tiến hành những hoạt động mạnh mẽ nhất, kiên quyết nhất để lật đổ chính quyền đương thời, xác lập chính quyền giai cấp cách mạng.

– Trong cách mạng vô sản, nhân tố chủ quan bao gồm:

+ Trình độ trưởng thành của phong trào công nhân, phong trào quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; sự sẵn sàng về tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng Cộng sản.

+ Ý chí quật khởi của quần chúng sẵn sàng đứng lên lật đổ nhà nước tư sản.

3. Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan

Để cách mạng thành công, cần phải có cả điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan, và sự kết hợp một cách khoa học giữa chúng.

Nếu điều kiện khách quan không cho phép, thì dù giai cấp cách mạng có làm chín muồi nhân tố chủ quan đến đâu, thì cách mạng không thể thành công. Nhưng giai cấp cách mạng không thể thụ động ngồi chờ, mà phải chuẩn bị lực lượng và tác động làm cho điều kiện khách quan chín muồi.

Và khi điều kiện khách quan đã chín muồi, thì giai cấp cách mạng phải kịp thời chớp lấy thời cơ, phát động quần chúng đứng lên làm cách mạng, giành chính quyền về tay mình và nhân dân.

Như V. I. Lênin đã lập luận, người mác-xít chân chính phải biết kết hợp tính sáng suốt khoa học hoàn toàn trong việc phân tích tình hình khách quan, sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực, tính sáng tạo, chủ động cách mạng của quần chúng, và của cả những cá nhân, những tổ chức, chính đảng  biết phát hiện ra và thực hiện sự liên kết với những giai cấp này hay giai cấp khác.

8910X.com

Bài liên quan:

  • //hcma.vn/khoa-hoc
  • //philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu.

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để bọn mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

Video liên quan

Chủ Đề