Một trong những đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam là văn dĩ tải đạo

1MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tài1.1. Trong văn chương Việt Nam thời trung đại, thơ được các vănnhân, học giả xem là thể tài quan trọng bậc nhất, bộc lộ rõ nhất nhữngđặc thù của văn theo nghĩa hẹp của khái niệm này. Thơ có lịch sử dàinhất, nhiều tác giả và tác phẩm nhất, và có thể nói lí luận về thơ cũngphát triển nhất. Việc nghiên cứu quan niệm về thơ không chỉ giúp chúngta hiểu thêm về các tác phẩm thơ trung đại và còn có ý nghĩa lớn trongviệc tìm hiểu quan niệm văn chương thời trung đại.1.2 Do nhiều nguyên nhân thuộc văn học và phi văn học mà quanniệm về thơ của người Việt Nam thời trung đại có những điểm tươngđồng với quan niệm của người Trung Hoa cổ - trung đại. Nghiên cứu đềtài này nhằm nhân thức thêm sự tương đồng và sự khác biệt của ngườiViệt Nam thời trung đại với quan niệm thơ của người phương Bắc.1.3 Từ trước đến nay đã có những công trình nghiên cứu quanniệm về thơ thời trung đại ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, với côngtrình 10 thế kỷ bàn luận về văn chương, lần đầu tiên những ý kiến bànluận về văn chương nói chung và thơ nói riêng của người Việt Nam thờitrung đại được tập hợp quy mô. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việcnghiên cứu đạt những kết quả mới có ý nghĩa.1.4 Trong chương trình ngữ văn ở các cấp, không chỉ tác phẩm thơViệt Nam trung đại được dạy - học nhiều mà còn có những văn bản nghịluận trung đại bàn về thơ. Nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần dạy tốt hơncác văn bản hữu quan.2. Lịch sử vấn đề2.1. Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, nhất là từ sau khi hòabình được lập lại ở miền Bắc năm 1954, di sản văn chương của dân tộcbao gồm văn chương dân gian và văn chương bác học, cả sáng tác và líluận phê bình được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và đạt được2những thành tựu đáng kể. Đã có không ít các công trình nghiên cứu đềcập đến bộ phận di sản này từ các góc độ khác nhau. Một trong nhữngvấn đề được quan tâm nghiên cứu là quan niệm về thơ.2.1.1. Việc khảo cứu di sản văn chương thời trung đại Việt Nam cóý nghĩa lớn. Trong bài báo Suy nghĩ về việc nghiên cứu và giới thiệu liluận văn học, Phương Lựu khẳng định: "Có thể nói, để khai thác tốt disản lí luận văn học của ông cha, trước măt việc sưu tầm, chú thích, hệthống hóa..., có giá trị như một công trình nghiên cứu mang tính chấtnền móng [Văn nghệ quân đội, số 2/1979].Có thể xem công việc sưu tầm, hiệu đính, chú giải các tư liệu cóliên quan tới các ý kiến của các văn nhân, học giả thời xưa trực tiếp haygián tiếp bàn luận về văn thơ được khởi đầu năm 1962 khi Nhà xuất bảnVăn hóa lần đầu tiên cho công bố bản dịch bộ sách Vân đài loại ngưcủa Lê Quý Đôn. Một năm sau, trên Tạp chi Văn học số 12/1963 dướiđầu đề Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam, nhà Hán họclão thành Nguyễn Đức Vân đã cho công bố ý kiến về thơ văn của một sốtác giả ở thế kỷ XVIII và XIX như: Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Địch Cát,Lý Văn Phức, Phan Thanh Giản, Nhữ Bá Sỹ, Cao Bá Quát, Nguyễn VănSiêu, Ngô Thế Vinh, Miên Thẩm, Nguyễn Tư Giản,... Năm năm sau, Tạpchi Văn học số 9/1968 ông lại cho công bố thêm ý kiến của một số tácgiả khác ở các thế kỷ trước đó như: Lý Tử Tấn, Hoàng Đức Lương, LêHữu Kiều, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Nhậm,...Từ năm 1973 trở đi, theo hướng của nhà Hán học lão thành, cácTạp chi Văn học, Nghiên cứu Nghệ thuật, Tác phẩm mới tiếp tục cho inmột loạt những ý kiến hoặc những bài viết bàn về văn thơ của các tácgiả Việt Nam thời trung đại.Năm 1981, Nhà xuất bản Tác phẩm mới cho in cuốn Từ trong disản do Nguyễn Minh Tấn chủ biên, tập hợp "những ý kiến bàn về vănhọc từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XX ở nước ta". Có trong tập sách là các ý3kiến của hầu hết các tên tuổi lớn thuộc các thế kỷ như: Nguyễn Trãi,Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Sỹ, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, PhanHuy Chú, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu,... Đúng nhưPhương Lựu nhận xét: " Từ trong di sản ... quả là một tập đại thànhkhông những riêng đối với công lao hàng mười năm của các soạn giả,mà còn đánh dấu một chặng đường dài sưu tập hàng mấy thế kỷ. Nó làviên đá đầu tiên đặt cơ sở cho việc khẳng định có một hệ thống quanniệm văn học trung đại Việt Nam" [24, 14].Công trình sưu tập, biên dịch đáng kể nhất vào thời gian gần đâyliên quan đến việc tìm hiểu quan niệm thơ cổ là công trình Người xưabàn về văn chương [tập 1] năm 1993 của Phó giáo sư Đỗ Văn Hỷ. Sốlượng tư liệu lí luận văn học cổ được nhà nghiên cứu sưu tập khá nhiều,và mặc dù chưa kịp phân loại, nghiên cứu kĩ, nhưng bằng trực giác ôngđã nhận xét khái quát là văn chương cổ ở nước ta tuy thiếu nhữngchuyên luận bề thế song lại được bù đắp bằng các bài tựa, bạt, dẫnluận,đề từ, thi, phú, văn,... nằm rải rác trong các tác phẩm thơ văn.Những vấn đề được các tác giả xưa đề cập đến bao gồm nhiều bình diệnvăn chương, rất phong phú, đa dạng và được trình bày một cách " hồntoàn hàm xúc" lời ít ý nhiều. Hệ thống tư liệu sưu tập được và nhữngđiều ông đúc kết qua ý kiến người xưa thực sự đó là những ý kiến gợimở, những chỉ dẫn hữu ích với những người nghiên cứu lớp sau muốntìm hiểu lí luận văn học cổ nước nhà.Năm 2007, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản công trình 10 thế kỷbàn luận về văn chương [Từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX, tập 1] donhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần NhoThìn sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Bộ sách lần đầu tiên đã giớithiệu tương đối đầy đủ thành tựu lí luận, phê bình văn học của ông chata suốt mười thế kỷ qua.42.1.2. Cùng với quá trình phát hiện các tư liệu là việc từng bướcnghiên cứu, phân tích, đánh giá, lí giải quan niệm thơ cổ Việt Nam.Tiểu luận Từ trong di sản...Mấy vấn đề thu hoạch [1981] củaNguyễn Minh Tấn đã dành nhiều đoạn bàn về quan niệm "Thi ngôn chi".Nguyễn Minh Tấn cho rằng: "Quan niệm "Thi ngôn chi" có thể được cácnhà văn, nhà nho nước ta vận dụng muộn hơn là "Văn dĩ tải đạo". Thi ngônchí đã góp phần tạo nên khuôn mặt độc đáo của văn học Việt Nam xưa,được các cụ ta vận dụng uyển chuyển, tâm đắc hơn là "Văn dĩ tải đạo"".Tác giả lí giải: "Thi ngôn chí là tiếng nói chân tình, là tâm hồn, tình cảmcủa người viết" [34, 237]. Nguyễn Minh Tấn còn góp phần giải thích:Thế nào là chí trong Thi dĩ ngôn chi?: " Chí có nhiều nội dung rất khácnhau. Chí của nhà thơ hướng về đâu thì Chí mang nội dung ở đó". " Gắnvới chi là tâm và tình. Tâm và tình vừa là điểm xuất phát vừa là mục tiêucủa chí" [34; 237- 239].Trong công trình Tìm hiểu văn học [1984], giáo sư Lê Đình Kỵ khinghiên cứu về di sản văn chương dân tộc, đã nghiên cứu quan niệm thơ.Đi vào hiện tượng tiêu biểu là Lê Quý Đôn, nhà nghiên cứu đã đề cậpđến một trong những quan điểm văn chương của Lê Qúy Đôn: "Làm thơcó ba điều chính: môt là tình, hai là cảnh, ba là sự", rồi bình luận: "cảnhchủ yếu là thiên nhiên, ngoại vật; sự chủ yếu là chuyện con người,chuyện xã hội; tình là do "cảnh" và "sự" tác động vào con người mà sinhra vậy. Có lẽ vì là thơ nên Lê Quý Đôn không nói đến ý, nhưng chúng tacó thể hiểu là trong tình đã hàm ý rồi... Cái cấu trúc tình, ý, cảnh, sự làcơ sở cho hình thành nghệ..." [20, 327]. Không chỉ bàn đến quan điểmvăn chương của Lê Quý Đôn, giáo sư còn đi vào vấn đề có tính chấtnguyên lí chung trong quan niệm về thơ: "Nổi bật lên trong tư tưởng vănnghệ của cha ông là quan điểm "Văn dĩ tải đạo", "Thi ngôn chí". Đạo ởđây không chỉ là đạo đức theo quan điểm Nho giáo, mà còn là điềuthiện, là thế đạo nhân tâm, là đạo làm người nói chung; chí là chí hướng,5là tấm lòng, là điều mình ôm ấp, mong ước, nhưng chí phải từ "tâm" màra" [20, 336].Phương Lựu trong chuyên luận Về quan niệm văn chương cổ ViệtNam [1985], đã đi sâu nghiên cứu khá toàn diện những khuynh hướng cơbản trong quan niệm văn chương cổ Việt Nam như: quan niệm vănchương yêu nước và tự hào dân tộc, quan niêm văn chương nho giáo,quan niệm văn chương hiện thực và nhân dân. Tuy nhiên, tác giả chưanghiên cứu nhiều ý kiến của người xưa về thơ.Chuyên luận Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trungđại Việt Nam [1997], Phương Lựu đã nâng cao công trình Về quan niệmvăn chương cổ Việt Nam. Đặc biệt ở công trình này, Phương Lựu đã đisâu nghiên cứu khá toàn diện hệ thống lí luận thơ cổ nước nhà. ChươngVề thể loai thơ ca - vấn đề "Thi dĩ ngôn chi", ông tán thành trước quanniệm cho rằng " Thơ ca cổ điển nước ta cũng là nằm chung trong côngthức " Thi dĩ ngôn chí" như ở Trung Quốc" [24, 194].Nhà nghiên cứu không tán thành quan điểm "Thi dĩ ngôn chí" làbiểu hiện của ''Văn dĩ tải đạo" vào thơ ca". Theo ông "chí" và "đạo"nằm ở những phương diện khác nhau" . Phương Lựu đã nhắc lại ý kiếncủa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan để khẳng định điềunày: "Một thì cho rằng: ''Có kẻ chí ở đạo đức, có kẻ chí để ở côngdanh, có kẻ chí để ở nhàn dật" [Tựa Bạch Vân am thi tập]. Còn ngườikia thì cũng có ý kiến tương tự. Nghĩa là đã đành có ''chí ở đạo đức"nhưng chí còn đối ứng với khắp chốn: ''ở sự nghiệp.., ở rừng suối gòhoang.., ở gió mây trăng tuyết.., ở nỗi uất ức.., ở niềm cảm thương ..."[Tựa Ngôn chi tập]". Đồng thời ông còn khẳng định: ''Hai công thứcnày ra đời cách xa nhau''. Theo nhà nghiên cứu ''Văn dĩ tải đạo'' xuấthiện vào đời Tống, còn ''Thi dĩ ngôn chí'' lần đầu tiên do Đại Thuấnnêu lên. Cuối cùng tác giả nhận xét, quan niệm Thi ngôn chí: ''Khôngphải là quan niệm về bản chất và chức năng xã hội mang tính khuynh6hướng của văn học, mà là một quan niệm về đặc trưng của thể loại vănhọc mang tính chất trung tính'' [24, 27].Trên cơ sở những thành tựu của người đi trước về quan niệm thơnói riêng nhất là quan điểm văn học nói chung của nhà bác học Lê QúyĐôn, Phạm Quang Trung đã tổng hợp lại một cách phong phú và có hệthống trong công trình Văn chương với Lê Qúy Đôn [1993]. Trong lờigiới thiệu về chuyên luận Văn chương với Lê Qúy Đôn, giáo sư Lê Định Kỵnhận xét: ''Trong tư tưởng văn học cha ông để lại, có lẽ Lê Qúy Đôn là cóđóng góp quan trọng nhất. Phần không nhỏ có liên quan đến văn học đượctrình bày rải rác trong Kiến văn tạp lục nhất là trong Vân đài loại ngư là''loại ngữ'' được chọn trích dẫn từ các sách xưa của Trung Quốc[ với lời bànthêm của Lê Qúy Đôn], gộp chung lại cho thấy quan điểm tiến bộ và tươngđối toàn diện của tác giả về các vấn đề cho đến nay còn giữ nguyên giá trịthời sự, như: văn học gắn liền với đời sống, tinh thần dân tộc, sứ mệnh xãhội của văn học, đặc trưng của văn học... Tuy chủ yếu thống nhất các quanđiểm được trích dẫn từ sách của Trung Quốc, nhưng Lê Qúy Đôn khôngcâu nệ, mà khi cần thì có biện bác trở lại theo tinh thần "nên đem lời và ýcủa cổ nhân mà đúc lại cho mới, chứ đừng bước theo lối cũ" [Điều 10-Vănnghệ]. Nhà nghiên cứu cho rằng: "Những quan điểm nói trên được tác giảVăn chương với Lê Qúy Đôn biện giải thỏa đáng, có so sánh đối chiếu với ýkiến của các tác giả thời trước cùng sự phân tích, đánh giá dưới ánh sángcủa kinh nghiệm lí luận văn học hiện đại". Lê Đình Kỵ đánh giá: ''Vănchương với Lê Qúy Đôn là một công trình biên soạn công phu, rất có íchcho việc tìm hiểu di sản tư tưởng văn nghệ quá khứ nói chung, của Lê QúyĐôn nói riêng".Năm 2001, Bùi Duy Tân với công trình Khảo và luận một số thểloại - tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam [tập 2], đã kháiquát súc tích, chắc chắn về văn học trung đại Việt Nam, về quan niệmvăn học, về hệ thống thể loại văn học Việt Nam thời cổ, khảo luận về7mối quan hệ giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam trong đó cóvấn đề quan niệm về thơ.2.2. Trên đây, chúng tôi đã trình bày tổng quan về tình hình khảocứu, nghiên cứu di sản quan niệm thơ cổ Việt Nam. Việc nghiên cứu vềquan niệm thơ cổ dù đã được quan tâm nhưng vẫn còn có những vấn đềcần tiếp tục nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của người đi trước đã chochúng tôi nhiều gợi ý bổ ích khi thực hiện đề tài Quan niệm về thơ trungđại trong "10 thế kỷ bàn luận về văn chương".3. Phương pháp nghiên cứuNgoài việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu văn học phổ biếnnhư thống kê, phân loại, tổng hợp, phân tích, luận văn còn chú trọngphương pháp hệ thống và phương pháp so sánh.Quan niệm về thơ vừa xuất phát từ thực tiễn thơ đương thời vừa kếthừa quan niệm thơ trước đó của Việt Nam và tiếp thụ quan niệm thơTrung Hoa. Quan niệm thơ cũng chịu sự ảnh hưởng của tình hình xã hộiđương thời. Khi nghiên cứu chúng tôi chú trọng các mối liên hệ văn họcvà phi văn học này.4. Mục đích nghiên cứu4.1. Khái quát những nội dung cơ bản nhất trong quan niệm về thơ củangười Việt Nam trung đại như đặc trưng của thơ, tác giả thơ, độc giả thơ.4.2. Lí giải các quan niệm đó4.3. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt với quan niệm về thơ củangười Trung Hoa.4.4. Chỉ ra sự tương đồng và khác biệt lớn so với quan niệm thơhiện nay.5. Phạm vi nghiên cứuNghiên cứu những ý kiến bàn về thơ được tập hợp trong công trình10 thế kỷ bàn luận về văn chương [Từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XX],Tâp1, Nxb Giáo dục, 2007.86. Cấu trúc luận vănNgoài Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn được triển khaitrong bốn chương:Chương 1: Về những mối quan hệ cơ bản của thơChương 2: Hình thức của thơChương 3: Tác giả thơChương 4: Độc giả thơ9Chương 1VỀ NHỮNG MỐI QUAN HỆ CƠ BẢN CỦA THƠCũng như nhiều nước khác ở Phương Đông, ở Việt Nam thơ là thểtài ra đời sớm nhất vì thế hiểu biết về thơ tiêu biểu nhất cho cách hiểu"văn" là "văn chương" nghĩa là cách hiểu hẹp nhất của từ này. Vào thờiHán, ở Trung Quốc, thi ca rất phát triển, đến mức nhà nghiên cứu LưuThiện Huệ nhà Thanh cho rằng: "Văn chỉ còn thơ và phú". Và lần đầutiên "văn" tách ra khỏi triết, sử để chỉ nghệ thuật ngôn từ. Trong lời tựacuốn Việt - Hán văn khảo, Phan Kế Bính viết: "Văn là gì? Cho rằng vănlà vẻ đẹp. Chương là gì? Chương là vẻ sáng. Lời của người ta rực rỡbóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp, vẻ sáng, cho nên gọi là văn chương. Ngườita ai là không có tính tình, có tư tưởng. Đem cái tính tình, tư tưởng ấy,diễn ra thành câu nói, tả ra thành đoạn văn, gọi là văn chương. Vậy thìvăn chương tức là một bức tranh vẽ cái cảnh tượng của tạo hóa cũng làtính tình và tư tưởng của loài người bằng lời nói vậy" [42, 312]. Vănchương được xem như tinh hoa của ngôn từ nghệ thuật nhằm biểu đạt tưtưởng tình cảm thẩm mĩ với sự hòa hợp giữa thế giới chủ quan và thếgiới khách quan của con người. Sau đó, ở Trung Hoa, loại thi thoại rấtphong phú và độc đáo. Những tên tuổi lớn của nền mĩ học Trung Quốcdường như đều gắn với các công trình lí luận về thơ. Ở Việt Nam, hầunhư không một người cầm bút nào kể cả "nhà trước thuật" lẫn "nhà cavịnh" lại không một lần bàn tới thơ. Lê Quý Đôn trong bài tựa Nghệ Anthi tập đã phát biểu "khi thần vui hứng đến, tức là lúc trí phát thành thơ"[42, 122]. Trong Vân đài loại ngư, ông cho rằng "Thơ phát khởi từ lòngngười" [42, 119]. Vì lẽ đó muốn xem các học giả xưa hiểu về vănchương cần nắm vững quan niệm về thơ của họ. Từ việc nhận thức vănchương là vẻ đẹp, văn chương là sản phẩm sáng tạo của con người, các10văn nhân, học giả đi vào khám phá các mối quan hệ cơ bản của vănchương văn chương nói chung và thơ nói riêng. Trong giai đoạn này, thơđược ông cha ta nhìn nhận trong nhiều mối quan hệ trong đó nổi bật nhấtlà thơ với tình cảm, với đạo và với thời cuộc.1.1. "Tình", "cảnh" và "sự" trong thơQua quá trình khảo sát, các thi nhân học giả xưa thường đưa ranhiều quan niệm có sức bao quát về văn chương. Một trong những quanniệm thể hiện rõ đặc thù của văn chương hơn cả là gắn văn chương vớitình cảm. Bùi Huy Bích viết: "Văn chương là tiếng nói của con tim"[15, 139]. Thực ra không có lời trong văn chương mới thấm đậm cảmxúc. Bên cạnh chức năng biểu ý, ngôn từ còn có chức năng biểu cảm.Song không ở đâu cảm xúc được yêu cầu cao như trong văn chương,nghệ thuật. Tình cảm trở thành một yếu tố của mọi thành công trongsáng tạo.Ngô Thế Vinh cho rằng: "Lời là tiếng nói của con tim, văn chươnglà cái làm cho lời dài thêm vậy" [42, 236]. Nên theo Bùi Ngọc Qũy"Tình ấy gốc văn, tình chật hẹp thì văn kia cứng xác" [15, 40]. Vun đắpcái tình trong văn trở thành đòi hỏi bên trong của việc làm văn.Văn có nhiều loại, ngay cả văn có nghĩa hẹp để chỉ văn chươngnghệ thuật thì không ở đâu cảm xúc lại được bộc lộ sâu đậm, tập trungnhư trong thơ. Không phải vô cớ mà một tác giả vô viết: "Căn cứ vào sựrung cảm của tình người mà thơ có thể quán triệt" [15, 164]. Dường nhưcác học giả, thi nhân xưa đều có quan niệm tương tự.Nhà bác học Lê Quý Đôn từ rất sớm đã đề cập đến chức năng thểhiện tình cảm của thơ. Ông viết: "Ta thường cho làm thơ có ba điềuchính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm xúc thực sự,rung cảm nên lời; thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi dùng lời lẽ điển tíchđể nói việc ngày nay, ghi việc xưa hay thuật lại truyện hiện tại, đều tự11nhiên có tinh thần. Tác giả tuy không chọn cách này hay cách khác,nhưng đại khái đều có ba điều trên". Tình chứ không phải là chi được đềcao, một cách nói thực chất mở đầu cho sự phủ nhận quan niệm Thingôn chi của nho gia. Chúng ta biết, tình và chí có những điểm tươngđồng, song không phải là một. Chi là nội tâm của người quân tử, bậcthánh nhân, hướng đến đạo lý cao siêu, đến phạm vi đạo đức chính trị, tuthân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ mà không quan tâm đến nhữngchuyện thường ngày, thường tình. Tình rộng hơn chí vì nó có thể baogồm cả những tình cảm không thuộc chi. Đây là tư tưởng ghi nhận mộtthời đại văn học mới nghiêng về chức năng nói tình của thơ, về cái đẹpcủa văn chương nghệ thuật. Như vậy, Lê Quý Đôn ở đây đã xem tình làgốc quyết định của thơ ca. Tựa như Lê Quý Đôn đã viết trong điều 13của phần Văn nghệ: "Hứng thú và tính linh tự nhiên bình đạm một khinêu cao lên thì cùng thấy thung dung [42,100]. Tư tưởng này sẽ kết nốiLê Quý Đôn đến Cao Bá Quát.Trong điều 48, Văn nghệ, Lê Quý Đôn còn viết: "Thơ phát khởi từlòng người" [42, 119] cũng là sự khẳng định vai trò quan trọng của yếutố tình cảm. Cũng quan đó, Vũ Duy Thanh viết: "Thơ khởi phát từ tình"[15, 75]. Chữ thi ở Trung Quốc ban đầu hàm nhiều nghĩa. Một trongnhững nghĩa của nó theo Dương Thụ Đạt ''là cái gốc và là cái mầm mọctừ trái tim''. Đọc thơ cổ Trung Hoa, Phan Phu Tiên nhận ra: "Mặc dùtrong đó dấu vết thời thịnh trị và loạn lạc không giống nhau, nhưng cảmxúc phát ra từ trong lòng thì chỉ là một [42, 21].Tình cảm nồng nàn được biểu hiện trực tiếp là dấu hiệu loại biệtphân tách thơ với các thể tài khác do đó ông cha ta thường đem tình cảmra làm tiêu chí để phân biệt thơ với các thể loại văn khác. Vương DuyThanh nói: "Kinh Thi khởi nguồn từ từ ... Kinh dịch khởi nguồn từ tính".Nguyễn Đức Đạt trong Nam sơn tùng thoại viết rằng: "Thơ là tình cảm,12phú là sự việc" [42, 276]. Nói vậy, không phải trong thơ không có sựviệc. Có điều "thơ dùng sự việc để phụ trợ cho tình cảm". Trên cơ sơ ấy,tác giả Nam sơn tùng thoại chê thơ đương thời chưa hay vì đi ngược lại:"dùng tình cảm để phụ trợ cho sự việc". Thề rồi ông đi tới một quyếtđịnh có lẽ thành quy luật muôn đời của thi ca: "Chú trọng vào tình cảmthì gọn, chú trọng ở sự việc thì rườm" [42, 276].Cổ nhân cho rằng, thơ càng hay thì càng gây chấn động lòng người,đó là những vần thơ vừa "làm kinh động con người" [Quân Bác] vừa"làm khóc được quỷ thần" [Hồng Nhậm].Theo người xưa, thơ không chấp nhận trạng thái dửng dưng đãđành, cũng không chấp nhận thứ tình cảm có chừng có mực. Cảm xúc dadiết, nồng cháy, bởi vậy được nhiều người xem là đặc trưng nổi bật củathơ. Nhà bác học Lê Quý Đôn viết: "thơ phát khởi tự lòng người" [Vănnghệ], Hồng Nhậm trong bài Tự Đức cơ dư tự tinh thi thì nói rõ hơn:Làm thơ nên thế nào?Là để thổ lộ tâm tình và ý chí [dịch] [42, 255].Thơ là sự hướng nội. Quá trình làm thơ là quá trình tự biểu hiện.Cảnh, sự, vật có đi vào thơ cũng chủ yếu nhằm giúp nhà thơ biểu hiệncho đạt, cho hay. Đề tài của thơ là vô cùng tận. Điều thiết yếu là ngườilàm thơ phải nhạy cảm và thật giàu tâm huyết.Thơ là tình cảm nồng cháy bởi người làm thơ đã từng sống trongtrạng thái tâm lý khác thường. Để viết Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Duđã "tự coi mình như người cùng chịu nỗi oan lạ lùng của người phongnhã" [Phong vân kì oan ngã tự cư]. Thương người đã khó, đặt mình vàocảnh ngộ của người càng nhiều lần khó hơn. Nhưng đó lại là nền tảngcủa thứ thơ giàu sức sống, bất chấp sự sàng lọc khắc nghiệt của tác giả.Tính tình chân thật góp phần làm nên những áng thơ hay. Không mấy13người không biết đến câu nói sau của Lê Quý Đôn trong Văn nghệ: ''300thiên trong Kinh Thi phần xuất phát từ điền phu [người làm ruộng], khuêphụ [người đàn bà nơi phòng khuê] mà các văn sĩ sau không thể theo kịpđược là vì nó chân thành" [42, 119].Làm thơ cũng có quy cách, nhưng quy cách hay phép tắc phải phụcvụ cho việc biểu hiện tình cảm. Cao Bá Quát trong bài bạt Tập thơ củaThương Công Sơn đã khẳng định: "Bàn về thơ, tuy phải chú trọng quycách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình" [42, 244]. Hay trong lờitựa Hoàng Công thi tập, Ngô Thì Nhậm viết: "Trong là chí phát ra lời làthơ. Lời phát ra nếu không có phép tắc, tức lòng mình cũng không cóphép tắc ... Phép tắc là cái để làm khuôn khổ cho sự vận dụng của lòng"[42, 145].Chúng ta có thể dẫn ra ở đây nhiều câu thơ mà ông cha ta nói chínhvề việc làm thơ phải gắn liền với tình cảm. Điều này chứng tỏ quan niệm"thơ gốc ở tình cảm" không phải chỉ đọng lại ở nhận thức, ở lý trí mà đãchuyển hóa thành cảm hứng nghệ thuật. Phạm Sư Mạnh, đời Trần MinhTông trong bài Họa thơ sứ Minh, có viết:Mỷ độc công thi hưu giai ý,Khâm hoài hòa khi lạc ung dung.[Mừng đọc thơ ngài lắm ý hay,Phục cái hòa khí vui chan chứa trong lòng].Hay Nguyễn Trãi trong bài đề Tranh bạch vân tư thân của Hà hiệuuý viết:Trì thử tặng quân hoàn toàn tự cảm,Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm.[Cầm thứ này tặng người, lại tự ngâm ngùi,Khi bài thơ viết xong, chính ta cũng thấm nước mắtxuống vạt áo].14Như vậy, tình cảm trong thơ phải đạt đến chỗ mãnh liệt kết tinh.Ngô Thì Nhậm còn mượn lời của Phan Huy Ích để khẳng định, tình cảmtrong thơ phải đạt đến chỗ tột cùng và biến thành "thần": "Hãy rung độnghồn thơ để cho ngọn bút có thần" [42, 149].Bản chất của thơ là tình cảm dồi dào kết tinh cho nên có tác độngtruyền cảm mãnh liệt khó có ở các thể loại văn học khác. Trong bài tựatập thơ Tinh xà kỉ hành, Ngô Thì Nhậm viết: "Là một tác giả lành nghề,thì không thể chuyên một loại nào mà đủ. Thơ, phú, ca, vịnh, biểu luận,kí, tự, bạt, giải thích, biến ngẫu, tán... uẩn súc ở trong tâm thuật, phát lộra lời văn... Nhưng trong đó có khả năng gây hứng thú và xúc cảm chongười ta thì không gì bằng thơ" [42, 141].Gần gũi với ý kiến trên, trong lời tựa Tập thơ và tranh vẽ bốn mươitám người con có hiếu, Đặng Huy Trứ cho rằng: "Ôi! Làm cảm độnglòng người chẳng có gì hay bằng thơ" [42, 283]. Sau này, dưới thời hiệnđại Phan Kế Bính cũng nêu nhận xét: "Văn chương chẳng những là mộtnghề chơi thanh nhã để di dưỡng tính tình mà thôi; mà lại có thể cảmđộng lòng người, di dịch được phong tục, chuyển biến được cuộc đời"[42, 312]. Văn chương được xem là cái đẹp thanh cao để bồi đắp tâmhồn và có khả năng chinh phục con người bằng tình cảm. "Tính tìnhngười ta xúc cảm với ngoại vật, sinh ra khi mừng, khi giận, khi vui, khibuồn, khi xót xa, khi ham muốn. Các mối tình ấy chứa ở trong bụng, tấtphải phát tiết ra nhời nói" [42, 314].Như vậy, văn chương còn là nơi hội tụ mọi trạng thái cảm xúcphong phú của tâm hồn con người được thể hiện bằng ngôn ngữ. Có thểthấy đây là sự tiếp nối quan niệm "thi giả căn tình" của Bạch Cư Dị[Trung Hoa] và của nhiều nho gia tiền bối khác.Thơ là tình, nhưng tình không tách rời ý. Nếu chỉ là tình, dẫu là tìnhtột bậc, cũng không thể làm nên những vần thơ tuyệt bút. Lê Hữu Trácxác định: "Thơ là cốt ở ý, ý sâu xa thơ mới hay" [42, 127]. Nói khác đi, ý15thấm vào tình, tư tưởng chan hòa với cảm xúc. Người xưa ít khi thiênlệch, họ nhìn thơ trong một tổng thể hài hòa giữa nhiều yếu tố và trongmối tương giao giữa các yếu tố với nhau. Đó là mối quan hệ giữa ý vàtình, rộng hơn đó còn là mối quan hệ giữa chí và tình. Trong lời dẫnĐạm Trai thi hóa, Nhữ Bá Sĩ cho rằng: "Thơ là để nói chí, nhưng biểuhiện ở nơi tình". Nói "chí" là đích lớn, đích chung của thơ, biểu hiện"tình" là đích cụ thể của từng bài, từng câu.Ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn rất có giá trị khái quát: "Thơcó ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự" [Điều 48, Văn nghệ].Như vậy ở đây, Lê Quý Đôn muốn nói đến mối quan hệ giữa chủ thể vàkhách thể. Đối với Lê Quý Đôn, tình là yếu tố hàng đầu, tức là, như ngàynay chúng ta nói, chủ quan là nhân tố quyết định trong sáng tạo. Trướcđó, Lê Hữu Kiều cũng đã từng phát biểu: "Trong mình sẵn điệu nhạcthiều, gặp đám đàn ca liền tưng bừng tấu khúc; cũng như trong tay cầmhoa đẹp, đến đâu cũng gieo sắc cảnh xuân" [42, 71]. Cái hay, cái biệnchứng là ở chỗ ngoài yếu tố chủ quan ["trong mình sẵn điệu nhạc thiều","trong tay cầm hoa đẹp"] là quyết định, yếu tố khách quan bên ngoài["gặp đám", "cảnh xuân"] cũng có vai trò khơi gợi quan trọng.Sau đó, Lê Quý Đôn giải thích rõ hơn: "Tình là người, cảnh là trời,sự là kết hợp cả đất trời và quán thông. Lấy tình chen vào cảnh, lấy cảnhkết hợp vào việc, gặp việc thì phát ra lời, nhân theo lời mà thành tiếng.Cảnh không hẹn mà tự đến. Lời không mong hay mà tự hay, để có thểtheo lên hàng thơ tao nhã" [42, 120]. Ta có thể nhận thức rõ, Lê Quý Đôncoi trọng yếu tố tình cảm trong thơ, cái chủ quan trong văn chương đếnmức nào.Biểu hiện tình cảm là đặc thù của thơ. Ở đây có sự gặp gỡ vớithuyết "di tình" trong lí luận văn nghệ Đông Tây kim cổ, hay thuyết "căntình" của Bạch Cư Dị. Cảnh và tình, vật và hứng thú tác động chuyểnhóa qua lại tinh tế trong thơ. "Vị tình" mà tạo văn, tạo thơ. Nhưng tình16do "quan vật", "nhập cảnh" mà có nên trong thơ cảnh vật thường thấmđậm tình người. Vương Phu Chi [Trung Quốc] viết "tình cảnh giao dung"tức là [tình cảnh lồng vào nhau] hay "tình trung cảnh, cảnh trung tình"[cảnh trong tình, tình trong cảnh] [38, 223].Nhận thức trên của ông cha ta, càng thấy rõ vai trò của tình cảm nhưmạch nguồn và động lực của sự sáng tạo văn chương, là nơi hội tụ mọitrạng thái tâm hồn khác nhau của con người, khi nào các trạng thái cảmxúc đó hướng vào mục tiêu thẩm mĩ của người nghệ sĩ sẽ tạo ra sảnphẩm văn chương. Do đó, văn chương là bức tranh hiện thực của tâmhồn nghệ sĩ.Lí luận văn chương hiện đại khi tìm hiểu bản chất của văn chương,cũng luôn nhấn mạnh đến đặc thù tình cảm. Tố Hữu khi cần đưa ra quanniệm của mình về văn chương, nhất là thơ đã luôn nhấn mạnh đây làtiếng nói "đồng tình", "đồng ý", tiếng nói "đồng cảm", giao cảm giữa nhàvăn, nhà thơ và bạn đọc. Điều này càng thấy trong ý kiến của Lê Duẩn:Nói đến nghệ thuật là nói đến quy luật riêng của tình cảm, nghệ thuậtvận dụng quy luật riêng vào tình cảm.Điều này góp phần lý giải vì sao đến với văn chương người đọckhông thể dửng dưng. Ấy là những nhà văn đã để trái tim mình đậpdưới từng trang viết, từng con chữ. Có thể xem quá trình sáng tạo làquá trình luyện ngọc. Tác phẩm được hình thành, hình tượng được tạora lung linh ánh sáng của ngọc quí. Nếu tinh ý, ta có thể ''nhìn thấymáu, thấy nước mắt, thấy niềm vui và nỗi đau của người thơ kì tài[Nguyễn Khải].Như vậy, tình cảm chính là một trong những biểu hiện của đặc trưngcủa thơ. Điều này dễ thấy thơ ở mọi thời đại. Tình cảm, trong đó tìnhcảm thẩm mĩ, có ý nghĩa đặc biệt. V.I. Lênin từng khẳng định: "Đã, đangvà sẽ không bao giờ có thể có sự tìm tòi chân lý của nhân loại nếu khôngcó cảm xúc của con người"171.2. Thơ và đạoTrong Việt - Hán Văn khảo, Phan Kế Bính khẳng định "Văn chươngcủa ta phần nhiều là gốc nước Tàu. Nay ta muốn biết văn chương của tathì trước hết lại nên tham khảo đến văn chương của Tàu nữa" [42, 313].Suốt thời trung đại Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử, vai trò của vănhóa Hán, và đặc biệt là chế độ đào tạo và tuyển lựa người tài, nên họcthuật [trong đó có hệ thống tri thức văn học] ở ta chịu ảnh hưởng sâuđậm và to lớn nền học thuật Trung Hoa. Thi luận cổ của dân tộc khôngnằm ngoài thực tế này.Trung Quốc xưa kia không chỉ là "đại thi quốc" mà còn là "đại thiquốc luận". Suốt 20 thế kỷ, có thể nói là không có triều đại nào lại khôngxuất hiện những nhà lý luận thi ca cùng những công trình lý luận thi canổi tiếng. Các nhà nho Việt Nam hầu như không một ai không từng biếtvà học hỏi quan niệm thi ca của Lục Cơ với Văn phú, Lưu Hiệp với Văntâm điêu long, Bạch Cư Dị với Thư gửi Nguyên Chẩn, Viên Mai với Tùyviên thi thoại... Tiếp xúc với bề dày lí luận thi ca đặc sắc và phong phúnhư vậy nếu có chịu tác động mạnh mẽ và sâu sắc cũng là điều hiểnnhiên.Thi ngôn chi gắn với văn dĩ tải đạo vốn có cội nguồn từ Trung Quốcthành quan niệm phổ biến của hầu hết các nhà nho xưa. Nguyễn VănSiêu cho rằng: ''văn và đạo tuy có tên khác nhau, nhưng nội dung của nóthì bắt nguồn từ đạo'' [42, 231]. Còn Miên Trinh thì viết: văn để chở đạo[42, 269]. Các học giả, văn nhân xưa ít chấp nhận một quan niệm nàokhác thế khi bàn về mối quan hệ giữa văn và đạo. Tuy nhiên trong ýniệm của mỗi người, mỗi thời, nội dung văn và đạo, tính chất mối quanhệ giữa văn và đạo lại không hoàn toàn giống nhau kể cả ở Trung Quốccũng như ở Việt Nam.Khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa thơ và đạo trong quan niệmcủa người xưa, trước hết ta đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn và đạo,18hay nói cách khác, ta sẽ đi tìm hiểu gốc gác của quan niệm văn học Nhogiáo chính thống cùng sự diễn biến của nó ở Trung Hoa. Không tìm hiểunhững vấn đề này thì khó lòng xác định được đúng thực chất khi nóiquan niệm văn học chính thống trong thời phong kiến ở nước ta.Mối quan hệ giữa văn và đạo thực chất ở đây là chức năng của vănhọc: quan niệm văn thơ tuyên truyền và bảo vệ đạo đức lễ giáo phongkiến - cũng là quan niệm văn học mang ý thức hệ Nho giáo.Khổng Tử là người tiêu biểu cho học phái Nho gia. Trong sáchLuận ngư ông viết: "Thơ có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sátphong tục, hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xathì thờ vua, lại biết được tên chim muông cây cỏ" [ Thiên Dương hóa].Chúng ta chú ý ngay đến quan niệm văn thơ coi trọng đạo đức trunghiếu phong kiến "gần thì thờ cha, xa thì thờ vua" của Khổng Tử. Theogiáo sư Phương Lựu, Khổng Tử là người "đề xướng một quan niệm vănthơ tuyên truyền và bảo vệ đạo đức lễ giáo phong kiến" [24, 76]. Khácvới Tống Nho sau này, Khổng Tử không đem đối lập gay gắt việc tuyêntruyền đạo đức phong kiến với việc nhận thức hiện thực. Không tuyệt đốihóa chức năng truyền đạo mà vẫn chú ý tới cái hay, cái đẹp của văn thơ:"lời văn phải khéo" [Lễ ký]. Bên cạnh đó, nội dung của văn học khôngphải chỉ có đạo đức, tư tưởng, lý trí thuần túy mà còn tình cảm, hứngthú. Như vậy, chứng tỏ Khổng Tử cũng coi trọng sự thống nhất giữa nộidung và hình thức.Sau này, Lưu Hiệp là người quán triệt khá sâu sắc tư tưởng củaKhổng Tử. Trong Nguyên đạo, Lưu Hiệp cho rằng: "Đạo nhờ thánh nhânmà thành văn chương, nhưng thánh nhân cũng nhờ văn chương mà làmsáng tỏ đạo". Như thế, văn chương cũng có vai trò năng động của nó,chứ không phải chỉ là cái công cụ, cái phương tiện thuần túy chở cái đạođã có sẵn đâu đấy. Lưu Hiệp cũng thấy được đặc trưng và sức mạnh19thẩm mĩ của văn chương: "Hình thức dựa vào nội dung, nội dung biểuhiện ở hình thức" [38, 158].Khi triều đại Đường có dấu hiệu suy thoái, thì các nhà tư tưởng củagiai cấp phong kiến bắt đầu khai thác trong học thuyết Khổng Tử nhữngthành phần tư tưởng nào có tác dụng củng cố thêm nền thống trị trướcmắt. Ở giai đoạn này, Hàn Dũ đã kế thừa quan niệm của Khổng Tử vàchỉ đặc biệt nhấn mạnh đến tư tưởng trung quân - thành quan niệm "văndĩ minh đạo" [Văn làm sáng tỏ đạo]. Ông giải thích đạo đây là "tiênvương chi đạo" chứ không phải hiện thực khách quan. Giữa văn và đạo,Hàn Dũ coi trọng đạo hơn.Tống Nho đã hệ thống hóa những phần duy tâm lạc hậu của Khổnggiáo, cùng những phần duy tâm lạc hậu của Phật lão, hun đúc thành khoa"lý học". Tống Nho đã tuyệt đối hóa phạm trù đạo và biến nó thành một thứgiáo điều, trừu tượng với công thức văn dĩ tải đạo. Trong quan niệm củaTống Nho, văn chương chỉ còn là một công cụ để chở đạo.Rõ ràng có một khoảng cách không nhỏ giữa quan niệm văn học củaTống Nho với Khổng Tử và Lưu Hiệp... mặc dù cả hai vẫn có một sơ sởchung là Nho giáo.Nhà nghiên cứu Phương Lựu đã kết luận: "công thức "văn dĩ tảiđạo" là một quan niệm phiến diện về phạm vi của "văn", tiêu cực về nộidung "đạo" và sai lầm vè phương pháp "chở" [24, 83].Về đại thể, trong thời trung đại Việt Nam, khái niệm đạo được hiểutheo hai ý chính: giáo lý Nho gia và quy luật của tự nhiên và xã hội.Xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, đạo thánh hiền thấm sâu vào suy nghĩvà hành động của các nhà nho suốt đời. Khi đã trưởng thành, lúc cầnphải dụng bút, họ không thể không nghĩ tới Ngũ luân, Ngũ thường. Quanniệm chính thống của nhà Nho về văn chương nói chung đề cao chứcnăng chuyển tải đạo lý phong kiến. Thơ nói chí, văn chương dùng để tải20đạo. Tức là nhấn mạnh nội dung tư tưởng, tính giáo huấn đạo đức củathơ ca.Trần Lê Sáng khẳng định chi trong quan niệm thi ngôn chi ở các nhànho Việt Nam có ba nghĩa chính. Thứ nhất, "chí" là chí khí giết giặc, thứhai, "chí" là "chí hướng thánh hiền" và thứ ba, "chí được hiểu là tình cảmcủa nhà thơ. Như vậy, ở đây, theo Trần Lê Sáng, chí cũng là cũng baohàm cả đạo [đạo Nho]. Thi ngôn chi, văn tải đạo là hai mệnh đề thựcchất chỉ mối quan hệ giữa văn và đạo. Vậy mối quan hệ này nó diễn tiếnnhư thế nào trong văn học thời trung đại.Trong quan niệm văn học chính thống, ông cha ta luôn đề cao quanniệm văn học ra sức bảo vệ và tuyên truyền, biểu dương và ca ngợi chochế độ, đạo đức và lễ giáo phong kiến.Trong bài thơ Bảo kinh cảnh giới [số 5], Nguyễn Trãi đã gắn liềnvăn học với ngôn luận của thánh hiền, với đạo trung hiếu, với đức nhânnghĩa:Văn chương chép lấy đòi câu thánh,Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung.Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,Có nhân, có tri, có anh hùng.Bài thơ cho chúng ta biết quan niệm của ông về chức năng của vănchương. Đó là quan niệm văn chương của nhà nho. Nhà văn, nhà thơphải truyền bá đạo thánh hiền, phải góp phần giữ gìn bảo vệ đạo trung,phải góp phần bằng ngòi bút của mình xây dựng một nền thái bình thịnhtrị, diệt trừ những nhân tố gây rối loạn cuộc sống của nhân dân: trừ độc,tham, bạo ngược.Trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca, Lê Thánh Tông viết: "Những ýlớn để biểu dương, những lời sâu để khuyên giới, đều chép đầy đủ đểcho sáng tỏ như những lời ca khuyên răn của đời Đường Ngu, mà hơnhẳn lối văn chương trăng gió mây mưa của đời Tống Ngụy. Có phải là21tranh hay đua đẹp, rèn chữ luyện câu như những bài vịnh cá, vịnh liễu ởvườn hậu uyển đâu" [42, 32]. Cũng trong bài tựa này, khi đề cập đếnhứng thú sáng tác của mình, Lê Thánh Tông nói rõ mối quan hệ máu thịtgiữa văn học với chế độ và lễ giáo phong kiến. Ông viết: "Ta lúc rảnh rỗisau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, mắt xem rừng sách, lòng dạovườn văn, không nghe huyên náo, lòng như hoa thơm, dục ít thần trong,ở yên cao hứng, bèn hăng hái nghĩ đến phép lớn của những bậc đế vươngthánh triết, đến lòng cặn kẽ của những bề tôi trung lương mới gọi Chửsinh [giấy], Mao thị [bút] nắm Huyền thượng khách [mực] dẫn Thạchtrọng thần [nghiêm] bảo cho biết rằng: Tình của ta thư thái, khí tinh anhcuồn cuộn tuôn ra, lời khuôn mẫu từng từng lớp lớp, các người có thể vìta ghi lấy được không?'' [42, 31].Việc vua tôi Lê Thánh Tông xướng họa có ý nghĩa sâu sắc. Một lầnnữa ta lại thấy các triều đại xưa rất coi trọng văn chương vì nhìn thấy ýnghĩa chính trị to lớn của nó. Văn chở đạo trong trường hợp này được nhàvua hiểu rất thực dụng. Ca hát năm được mùa cũng có nghĩa là ca ngợi tàiđức của nhà vua, vì người xưa có niềm tin vững chắc về mối liên quan giữađức của thiên tử với đời sống trong tự nhiên và xã hội. Đây là mẫu mực đểchúng ta nghiên cứu thứ văn chương thù tạc, quan phương, chính thống.Dù hấp thụ quan niệm văn học Nho giáo, thì người xưa dần dầncũng có những biểu hiện đề kháng Tống Nho một cách trực tiếp - hay nóicách khác người xưa dần dần có ý thức vạch ranh giới với Tống Nho. Tathấy văn học giai đoạn này, từ lý luận đến thực tế sáng tác đều trực tiếpbày tỏ quan niệm văn học phải ca ngợi chế độ, đạo đức và lễ giáo phongkiến, nhưng ông cha ta vẫn thấy được cái hay, cái đẹp và ra sức ngợi canó. Trong bài tựa Trich diễm thi tập, Hoàng Đức Lương viết: "Đối vớithơ ca, người xưa thường ví với nem chả, hoặc ví với gấm vóc. Nem chảlà vị rất ngon ở đời, gấm vóc là màu đẹp ở đời. Phàm người có miệng, cómắt, ai cũng quý trọng, mà không vứt bỏ khinh thường. Có điều là: sắc22đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được, cũngvậy, vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếmthấy ..." [42, 28]. Thoạt nhìn, quan niệm này mang tư tưởng bất khả trinhưng thực chất đã đụng đến những giá trị đặc trưng của thơ. Trong cácđịnh nghĩa về thể loại, định nghĩa về thơ có số lượng lớn nhất. Điều nàycho thấy đây là thực thể khó nhận thức.Quan niệm này ta còn bắt gặp trong các phát hiện của Lê Quý Đônvà một số học giả khác sau này.Giai đoạn sau, từ thế kỷ XVI - XVIII, cũng xuất hiện rất nhiều lờibàn về mối quan hệ giữa thơ và đạo. Tuy nhiên, giai đoạn này, chế độphong kiến Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ suy thoái nên quan niệmvăn học phong kiến chính thống trong thời kỳ này không còn mang tínhchất tiến bộ như trước nữa. Học hành, thi cử, sáng tác văn chương củamột bộ phận lớn nho sĩ cũng bộc lộ khuynh hướng công thức, tô hồng,xu phụ vua chúa.Vũ Phương Đề khi Bàn về thơ đã viết: "Sau thời Lê Trung Hưng,văn học ngày một kém. Như việc thi cử, khi vào trường thi, sĩ tử thườngxúm nhau lại làm bài chung. Người này nêu lên một câu, người khác sửalại một tí, cứ thế làm nên một bài kha khá, những người cùng nhóm ấycứ theo đó mà chép vào bài thi, vì vậy cái bài của thí sinh làm khôngkhác gì nhau. Có khoa thi vào kì Đệ tứ, trong bài văn sách có câu viết:thượng hữu khả vi chi quân, hạ hữu khả vi chi quân [trên có vua giỏi,dưới có vua giỏi]. Quan chấm thi thấy có chữ quân [vua] ở câu dưới, biếtlà thí sinh viết nhầm chữ thần [tôi], nói: "Bài thi này viết nhầm chữ, phảiđánh hỏng". Một viên quan khác trong ban giám khảo hỏi nhầm chữ gì.Quan chấm bài thi trên đọc lại hai câu cho mọi người nghe. Họ nói đùa:"không phải thí sinh viết nhầm đâu; trên có vua giỏi chỉ đức vua [Lê],dưới có vua giỏi là chỉ đức chúa [Trịnh] vậy". Viên quan chấm thi nghenói sợ hãi, liền lấy đỗ bài thi trên, không dám đánh hỏng" [42; 75- 76].23Lời bàn của ông phản ánh quan niệm quen thuộc của Nhà nho vềmối quan hệ chặt chẽ giữa thi văn với sự thịnh suy của chính trị một thờiđại. Lô gic tất yếu là văn chương trong thời loạn đó là thứ văn chươngsuy đồi. Một trong những nguyên nhân của tình hình hư hại này, theoPhạm Đình Hổ là vì nho sĩ thời ấy đã dần dần xa rời tư tưởng Nho giáochính thống, có xu hướng học đòi các bậc hậu nho [tức Tống Nho]. Ôngviết: "Những khi giảng học và mở khoa thi, thì phàm những đại nghĩakinh, truyện và nguồn gốc chính trị, loạn từ xưa tới nay, điều hay điềudở, không mấy người khảo sát cho tinh, chỉ chuyên học những bài chúthích, những bài nghị luận của những nhà hậu nho, nhặt lấy những câuđầu đề, hiểm hóc để ra văn cho hay" [42, 185].Như vậy, trên một ý nghĩa nào đó, quan niệm văn học phong kiếnchính thống trong giai đoạn này gần với "văn dĩ minh đạo" của Hàn Dũ,làm khúc dạo đầu cho quan niệm văn học của vua quan triều Nguyễn rậpkhuôn theo công thức "văn dĩ tải đạo" của Tống Nho. Quan niệm "chởđạo" này theo cách lý giải và quan niệm nghiệt ngã của Tống nho. Đạoquan trọng nhất là đạo trung quân, hơn nữa là đạo ngu trung với cáchoàng đế đời Nguyễn.Về các chúa Nguyễn, Lê Quý Đôn có lần nhận xét rằng: "HọNguyễn trước chuyên giữ một phương, chỉ mở khoa thi hương, songchuyên dùng lại tư, không chuộng văn chương, nên ít thu lượm đượcngười tuấn dị" [Phủ biên tạp lục].Trong giai đoạn này, một số nho sĩ cũng đã phát biểu quan niệm củamình về quan hệ giữa thơ và đạo.Nguyễn Tử Giản khi bàn về "thần", "khí", "thể", "cách" của thơ đãcho rằng: "Văn của thánh nhân là để chở đạo, văn của văn nhân là đểluận đạo" [42, 275]. Và đạo ở đây không phải là hiện thực khách quanmà là đạo nghĩa thánh hiền. Văn không nhất thiết phải thật đẹp, miễn lànói lên được được cái đạo đó. Trong bài tựa tập thơ Tinh sà kỉ hành, Ngô24Thì Nhậm viết: "Người làm văn quý ở mực thước, thanh nhã, hồn nhiên,biết nắm lấy cái thực để làm cốt tử, rồi dùng cái đẹp trang sức thêm, làmthơ cũng phải như thế [42, 142].Nguyễn Văn Siêu cho rằng: "Văn" và "đạo" tuy có tên khác nhau,nhưng nội dung của nó thì bắt nguồn từ "đạo"". Tất cả những điều nàyđược tập trung trong quan niệm văn học đậm màu sắc Tống Nho của TựĐức: "Đạo là gốc rễ của văn, văn là cành lá của đạo" hay "Nói đến đạonghĩa tức là nói đến văn chương... Đạo tức là văn, văn tức là đạo".Mặc dù có những mặt hạn chế trong quan niệm về mối quan hệ giữathơ và đạo như trên, nhưng ở cả hai giai đoạn này, không phải là khôngcó những đóng góp cho hệ thống quan niệm văn học tiến bộ của dân tộc.Khi đọc bài văn Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân chết vì nước, nhàthơ hoàng tộc Tuy Lý vương Miên Thẩm đã viết: "Một người thư sinhmà đến đỗi dùng bút đánh giặc" [42, 257].Nguyễn Đình Chiểu trong bài thơ Than đạo càng bộc lộ quan niệmquan niệm về văn chương:Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà,Căm lấy lòng nhơ mang thói bạc,Trời gần chẳng gánh, gánh trời xa [42, 271].Đạo ở đây không phải là "thiên lý" của Tống Nho, mà là "cứu nước,thương nòi" của người chiến sĩ - thi sĩ trong buổi đầu giặc Pháp xâmlược.Mệnh đề Thi ngôn chi đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng KhắcKhoan, Nguyễn Cư Trinh và các văn nhân, học giả khác bàn luận khá sâusắc. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài tựa Bạch Vân am thi tập đã viết "nóitâm là nói về cái chỗ mà chí đạt tới vậy; mà thơ lại là để nói chí" [42,51]. Phùng Khắc Khoan trong bài tựa Tập thơ ngôn chi thì viết: "cái gọilà thơ thì không phải là láu lưỡi trong tiếng sáo, chơi chữ dưới ngòi bút25thôi đâu mà là để ngâm vịnh tính tình, cảm động mà phát ra chí ý nữa"[42, 52]. Nguyễn Cư Trinh cho rằng: "Để trong lòng là chí, ngụ ra ý làthơ" [42, 63]. Ngô Thì Nhậm cũng cho rằng: "Ở trong lòng là chí, phát ralời là thơ" [42, 145].Các bài tựa cho ta biết về cách hiểu chi trong mệnh để thi ngôn chi,cũng như cách mượn cảnh vật, sự vật để tỏ chí. Chí ở đây trước hết là chínguyện của nhà nho muốn đem tài năng, học vấn tham gia vào cuộc sốngchính trị xã hội, là chí của một nhân cách nhà nho cao thượng nếu khôngcó cơ hội thể hiện con người chính trị của mình thì cũng ẩn dật để bảo vệsự cao thượng, trong sáng của nhân cách ấy. Đây chính là quan niệmchính thống quen thuộc của nhà nho.Theo giáo sư Lê Đình Kỵ, đạo không chỉ là đạo đức theo quan điểmnho giáo, mà còn là điều thiện, là thế đạo nhân tâm, là đạo làm người nóichung. Hay nói cách khác đạo ở bên cạnh nội dung tư tưởng của thơ cacòn thể hiện chức năng giáo hóa của thơ ca nữa. Chẳng hạn, Ngô ThìNhậm khi bàn về thơ đã khẳng định: "ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điềuhay mới là cái đặc sắc chính của thơ" [42, 149].Tóm lại, mối quan hệ thơ và đạo là vấn đề có nhiều quan niệm.Trong con mắt của phần đông nho gia truyền thống, thơ và đạo có mốiquan hệ chặt chẽ với nhau.Đầu thế kỷ XX, một số nhà nho khác như Nguyễn Bá Học, TrịnhĐình Rư... đã có sự phân biệt giữa đạo với văn chương. Trịnh Đình Rưcho rằng: "Đem những lời luân lý, những giọng đạo đức mà đặt ra vănthơ một cách rõ ràng, mộc mạc, thì tất là khó nghe, vì muốn giảng đạođức hay là lí luận tất phải là những bài bàn, bài học riêng, chớ đã tới thơvăn thì phải đứng vào một phương diện khác" [42, 788].Càng ngày các nhà văn càng nhận rõ sự lỗi thời của giáo lý nhà nho,trong sáng tác họ đã nhận thấy: "Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu".Trong thơ văn của họ lu mờ dần giáo lý phong kiến, thay vào đó là

Video liên quan

Chủ Đề