Một trong những nguyên tắc của chính sách đối ngoại ở nước ta hiện nay

Câu 1: Trình bày ý nghĩa của quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới? Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị với các dân tộc và quốc gia trên thế giới nhằm mục đích gì? Em sẽ làm gì để góp phần xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị?

Xem lời giải

Từ khi thành lập đến nay, Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất quán chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của mỗi nước và những nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Tuy nhiên, đo điều kiện lịch sử trong mỗi giai đoạn cụ thể nên cách thể hiện trong các bản hiến pháp nước ta không hoàn toàn giống nhau. Những năm gần đây, cùng với những thành tựu to lớn mà Nhà nước và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được ở trong nước, hoạt động đối ngoại của chúng ta cũng đã có những bước phát triển quan trọng. Với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng quan hệ với các nước, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đường lối đó đã được thể chế hoá một cách đầy đủ và sâu sắc trong Điều 14 Hiến pháp năm 1992:

“Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đẩu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.

Đường lối đối ngoại đó thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta và truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta và phù họp với xu hướng phát triển của thế giới hiện đại.

Kế thừa quy định trên của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục có bước phát hiển mới, thể hiện đầy đủ và toàn diện hơn chính sách đối ngoại của Việt Nam. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 khẳng định:

“Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hoả, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thố, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đắng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dãn tộc, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

Mục lục bài viết

  • 1.Chính sách đối ngoại
  • 2.Kết luận về chính sách đối ngoại
  • 3.Kết quả triển khai công tác đối ngoại
  • 4.Kết quả triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
  • 5. Một số tồn tại, hạn chế

1.Chính sách đối ngoại

Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đồng thời đề ra chính sách đối ngoại nhằm tăng cường sự bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy các quyền con người trên thế giới. Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong lĩnh vực này được dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo là việc giải quyết các vấn đề quyền con người cần thông qua đối thoại hòa bình và trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Phương châm hành động mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề ra trên lĩnh vực này là chủ động, tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con người.

Cụ thể về vấn đề trên, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định, cần: “Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền1”. Trong Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã xác định, việc kết hợp hài hòa giữa các giá trị phổ quát của các quyền con người và hoàn cảnh đặc thù riêng của quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực quyền con người là một trong những bài học thành công của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Báo cáo nêu rõ: “Việt Nam hết sức coi trọng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Đối thoại và hợp tác quốc tế vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, vừa giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau; qua đối thoại và hợp tác quốc tế Việt Nam đã giúp bạn bè và cộng đồng quốc tế hiểu hơn về tình hình và hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, vừa là cơ hội để Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, bảo đảm tốt hơn các quyền con người ở Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới”3. Cũng trong Báo cáo này, Việt Nam cam kết: “… tiếp tục hợp tác với các quốc gia khác, với Liên hợp quốc và các cơ quan của tổ chức này để đảm bảo ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của con người trên lãnh thổ Việt Nam và trên toàn thế giới”.

Cụ thể, Việt Nam cam kết xem xét và rút bảo lưu Điều 5 Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em của Công ước quyền trẻ em; nghiên cứu gia nhập thêm một số công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, Công ước chống tra tấn; phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tật; Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung về trấn áp, trừng trị tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Thêm vào đó, Việt Nam cũng cam kết thực hiện các nghĩa vụ của các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tham gia tích cực vào hoạt động của một số cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người như Hội đồng quyền con người, Uỷ ban của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng kinh tế - xã hội; tiếp tục đối thoại về quyền con người với các nước và các tổ chức quốc tế; xem xét mời các báo cáo viên đặc biệt về quyền lương thực, chuyên gia độc lập về quyền con người và đói nghèo, báo cáo viên về giáo dục, chuyên gia độc lập về tác động của nợ nước ngoài đối với việc hưởng thụ quyền vào thăm Việt Nam trong thời gian tới để hiểu thêm về tình hình Việt Nam và hỗ trợ Việt Nam bảo đảm tốt hơn quyền con người trong các lĩnh vực này

2.Kết luận về chính sách đối ngoại

Cuối cùng, như đã đề cập ở trên, Việt Nam bày tỏ sự mong muốn các nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ Việt Nam tăng cường năng lực cho cán bộ và người dân, nâng cao nhận thức về vấn đề quyền con người2. Bên cạnh những hoạt động trong khuôn khổ diễn đàn Liên hợp quốc, với tư cách là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á [ASEAN], Việt Nam còn tích cực tham gia cùng các nước trong Hiệp hội xây dựng văn kiện khung cho việc thành lập một cơ quan quyền con người của khu vực trên cơ sở Điều 14 Hiến chương ASEAN. Thêm vào đó, trong một số năm gần đây, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc đối thoại cả song phương và đa phương cấp chính phủ với các nước, các tổ chức quốc tế trên lĩnh vực quyền con người, cụ thể như với Hoa Kỳ, Na Uy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Ôxtrâylia, Liên minh châu Âu… Mục đích của các cuộc đối thoại là giúp các nước có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về hoàn cảnh lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hoá, cũng như hệ thống chính sách, pháp luật và các điều kiện cụ thể của Việt Nam, qua đó, tìm kiếm đồng thuận, hạn chế bất đồng trong vấn đề quyền con người. Cũng với mục đích này, trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, vận động ngoại giao nhằm đề cao các thành tựu quyền con người ở Việt Nam, trong đó bao gồm việc chủ động đăng cai các hội nghị, hội thảo quốc tế về quyền con người.

3.Kết quả triển khai công tác đối ngoại

Trước hết, công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa.

Trước những biến động nhiều mặt rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, ta đã có những quyết sách đúng đắn, bước đi phù hợp để ngăn ngừa chiến tranh và xung đột, xử lý hài hòa các vụ việc, bất đồng, cố gắng tăng mặt “đối tác”, giảm mặt “đối tượng” của các nước, không để leo thang thành xung đột, qua đó đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt phương châm giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Cùng với quốc phòng - an ninh, đối ngoại đã tham gia tích cực vào công tác phân giới cắm mốc, mở các cửa khẩu mới, quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ là đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng

Hai là, ta đã làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các nước, tăng đan xen lợi ích, đặc biệt là với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống.

Công tác đối ngoại qua các kênh, các lực lượng, đặc biệt là đối ngoại cấp cao, các bộ, ban, ngành và địa phương củng cố và thắt chặt quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, nòng cốt là phát triển lòng tin, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi. Từ khi thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đến nay, Việt Nam đã thiết lập thêm được quan hệ Đối tác chiến lược với 9 nước trong tổng số 16 ĐTCL của ta hiện nay là Đức, Pháp, Italia, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Úc; thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với 6 nước là Hoa Kỳ, Đan Mạch, Mi-an-ma, Ca-na-đa, Hung-ga-ri và Bru-nây trong tổng số 13 Đối tác toàn diện của ta đến nay. Trong giai đoạn này, ta cũng đã nâng cấp quan hệ với Nga và Ấn Độ lên “Đối tác chiến lược toàn diện”, với Nhật Bản lên “Đối tác chiến lược sâu rộng”, và đang hướng tới thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Niu Di-lân, nâng cấp quan hệ với Hàn Quốc lên Đối tác chiến lược toàn diện. Ta đã có các bước tiến đáng kể trong việc đưa các mối quan hệ này đi vào chiều sâu, tin cậy chính trị được nâng cao rõ rệt, đan xen lợi ích và các cơ chế hợp tác được củng cố.

Ba là,thể hiện phương châm“là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, ta ngày càng chủ động và đã đạt được một số thành công bước đầu trong việc nâng tầm đối ngoại đa phương, thực hiện được phương châm chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương mà Đại hội Đảng XII đã đề ra.

Bốn là, triển khai đường lối đối ngoại đã góp phần trực tiếp vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho phát triển, tranh thủ khai thác vị thế đi lên của đất nước và hợp tác chính trị - ngoại giao cho phát triển kinh tế - xã hội.

Năm là, các trụ cột và lĩnh vực quan trọng khác của công tác đối ngoại như ngoại giao văn hóa, thông tin tuyên truyền đối ngoại, công tác người Việt Nam ở nước ngoài và công tác bảo hộ công dân được triển khai hiệu quả.

4.Kết quả triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Nếu như Cương lĩnh 2011 và Đại hội Đảng XI đề ra chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thì Đại hội Đảng XII khẳng định rõ hơn: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Nghĩa là, đây là chủ trương lớn, mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước từ giai đoạn 2011 đến nay cũng như trong nhiều năm tới.

Từ khi thực hiện Cương lĩnh 2011 đến nay, ta đã đẩy mạnh triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cả về mặt xây dựng chính sách, chiến lược cũng như trong triển khai thực tế, đồng thời xử lý tốt những khó khăn, trở ngại phát sinh ngoài dự kiến trong quá trình triển khai chủ trương này.

Về công tác hoạch định chủ trương, chính sách, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22 về hội nhập quốc tế [4/2013]. Chính phủ đã xây dựng và công bố Chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Chương trình hành động để triển khai Chiến lược này. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết số 06 [tháng 11/2016] về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Các bộ, ngành và địa phương đều xây dựng và triển khai các chiến lược nhánh trong lĩnh vực phụ trách để thực hiện Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế.

Trong triển khai thực tiễn, trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, ta đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực từ chính trị - ngoại giao đến quốc phòng, an ninh, văn hóa – xã hội... Đặc biệt, hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều bước tiến về chất, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực bên ngoài để xây dựng đất nước và tạo động lực cho đổi mới thể chế kinh tế trong nước.

Về hội nhập kinh tế quốc tế, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, khoảng 70 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.[2] Ta cũng đã trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, các tổ chức tài chính toàn cầu như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, các tổ chức hợp tác kinh tế-xã hội trong khuôn khổ LHQ và nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, Tiểu vùng Mê Công mở rộng.

5. Một số tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, giữa Trung ương với các địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác đối ngoại. Việc thực hiện Quy chế 272 về Quản lý thống nhất đối ngoại, quản lý các đoàn đi công tác nước ngoài theo ngân sách Nhà nước cần tiếp tục được thực hiện nghiêm túc hơn.

Thứ hai, công tác triển khai hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm và sớm khắc phục: nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự đầy đủ, thống nhất, công tác phối hợp chưa hiệu quả; việc thực hiện các cam kết chưa đầy đủ và đồng bộ; thông tin cho các doanh nghiệp và người dân về hội nhập quốc tế, Cộng đồng ASEAN, CPTPP…còn hạn chế; sự chuẩn bị trong nước còn chậm, thiếu chủ động.

Thứ ba, việc theo dõi, triển khai, đôn đốc thực hiện các thỏa thuận, cam kết quốc tế đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn các “điểm nghẽn” trong quan hệ với một số đối tác quan trọng, hiệu quả triển khai kết quả, thỏa thuận của các chuyến thăm chưa cao. Văn hóa thực thi vẫn là một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ tư, công tác nghiên cứu, tham mưu dự báo chiến lược mặc dù đã được cải thiện và nâng cao chất lượng song vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác đối ngoại trong tình hình mới; cần được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa trước những chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực.

Luật Minh Khuê [ sưu tầm và biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề