Truyện Vợ nhặt đã đạt được cả 3 yêu cầu nghệ thuật trên.
1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo và cảm động
Tình huống được nêu lên ngay ở đầu đề của truyện: Vợ nhặt. Một anh dân nghèo xấu xí, dở hơi, ế vợ, bỗng “nhặt” được vợ một cách dễ dàng. Một chuyện kì lạ khiến cả xóm ngụ cư phải ngạc nhiên. Mẹ anh ta cũng ngạc nhiên. Bản thân anh ta cũng lấy làm lạ, cứ “ngờ ngợ như không phải thế”, nhưng khi đã hiểu ra rồi thì lại nảy ra một điều ngạc nhiên khác: giữa lúc đói khát này, một anh dân nghèo nuôi thân chẳng xong, lại còn lấy vợ! Một tình huống đặc biệt éo le: vừa mừng, vừa lo, vừa vui, vừa buồn, và càng ngẫm nghĩ càng thấy “ai oán xót thương”. Không ai thấm thía điều này hơn bà cụ mẹ Tràng:
‘Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho côn là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này… Nhưng “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”, “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương lắm”
Tình huống này làm bật lên hai ý nghĩa của thiên truyện:
-
Lên án sâu sắc tội ác của bọn thống trị Nhật, Pháp và tay sai. Chúng đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp đến nỗi cái giá con người không hơn cái rơm, cái rác, có thể nhặt được nơi đầu đường xó chợ.
-
Con người luôn khát khao tình yêu thương và hạnh phúc gia đình, và trong bất cứ tình huống nào cũng vẫn tin ở cuộc sống, vẫn hi vọng ở tương lai.
2. Nghệ thuật trần thuật tự nhiên, hấp dẫn
Mở đầu tác phẩm, tác giả giới thiệu nhân vật Tràng và tình huống truyện một cách tự nhiên: Tràng đưa vợ về nhà trong con mắt đầy ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư.
Đến lúc chính anh ta cũng ngạc nhiên khi thấy “Thị ngồi ngay giữa nhà” thì tác giả mới qua dòng hồi tưởng của Tràng thuật lại đầu đuôi câu chuyện anh ta nhặt được vợ như thế nào. Sau đó, mạch truyện lại chảy xuôi cho đến kết thúc.
Trần thuật thông qua đối thoại giữa các nhân vật cũng là một nét đặc sắc của truyện. Tác giả đã dựng được nhiều đoạn đối thoại sinh động và rất hóm hỉnh của hai vợ chồng Tràng [cuộc đối thoại bằng ngôn ngữ “chao chát chỏng lỏn” nơi nhà kho quán chợ, đối thoại bằng thứ ngôn ngữ ‘nhấm nhẳng, cộc lốc” trên đường về nhà Tràng] và giữa mấy người đàn bà trong xóm ngụ cư về người vợ nhặt của Tràng…
3. Thể hiện một cách chân thật và sinh động tâm lí nhân vật
Hoặc qua bộ điệu và ngôn ngữ, hoặc trực tiếp diễn tả tâm trạng, ý nghĩ của họ:
-
Vợ Tràng : tâm lí tội nghiệp của một người đói khát cùng đường đến mức trơ trẽn, liều lĩnh không còn chút e thẹn nào của người đàn bà.
-
Tràng: tâm lí bàng hoàng vì bỗng nhiên lấy được vợ quá dễ dàng - điều mà xưa nay anh ta không dám mơ ước. Anh ta vừa tự hào, vừa vui sướng, vừa ngượng ngùng nên vốn vụng về lại càng vụng về hơn, muốn bày tỏ tình cảm mà không biết nói thế nào cho phải. Anh ta không phai không “chợn” nhưng niềm vui lấn át tất cả. Lấy được vợ đối với Tràng là cả một cuộc đời. Anh ta thấy mình bây giờ mới thực sự “nên người” nghĩa là thấy mình phải đứng đắn hơn, có trách nhiệm hơn với cái nhà của mình, với mẹ, với vợ, không thể sống tùy tiện, vô tâm như trước.
-
Mẹ Tràng [bà cụ Tứ]: Lúc đầu không hiểu được con mình có thể lấy được vợ. Khi hiểu ra thì lòng mẹ ngổn ngang: lo lắng, tủi cực, xót thương lẫn mừng vui. Nhưng cái mừng không sao lấn át được với cái lo, vì bà cụ ca một đời chưa bao giờ thoát khỏi đói nghèo. Nhưng thương con, thương dâu, có ý thức trách nhiệm của người làm mẹ, bà cụ cố che giấu cái buồn, cái lo, nói toàn chuyện vui tương lai sáng sủa, gắng tin ở cái triết lí dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
Thông qua tâm lí của ba nhân vật diễn ra trong một tình huống đặc biệt, chủ đề truyện được thể hiện một cách sâu sắc, và cảm động: người dân lao động trong xã hội cũ cực khổ vô cùng, suốt đời không thoát khỏi đói nghèo, tuy vậy rất giàu tình yêu thương, họ khát khao tổ ấm gia đình, Và không gì có thể cướp ở họ niềm tin vào sự sống và tương lai. Một chủ đề vừa có ý nghĩa tố cáo xã hội vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
- Theo Cùng học vui -
Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách “ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật. Đọc “Vợ nhặt” – Kim Lân, ta thấy tác giả đã vận dụng khéo léo, lựa chọn thích hợp yếu tố điểm nhìn trong tác phẩm của mình để tạo nên sự hấp dẫn, sinh động, thành công, giá trị.
Mở đầu truyện, nhà văn Kim Lân miêu tả ngay vào cái không khí ảm đạm với màu sắc xanh xám của xác chết, bóng ma. Cái đói đã tràn về khắp các ngõ ngách. Không khí vẩn lên mùi xác chết. Trong hoàn cảnh ấy lại hiện lên một sự bất thường, đó là việc anh cu Tràng dẫn theo một người đàn bà lạ mặt về với nụ cười trên môi. Tràng được miêu tả với những đường nét thô kệch, với một sự đẽo gọt sơ sài của tạo hóa “hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Đã thế Tràng lại là một dân ngụ cư trôi dạt từ nơi đói khát, khổ sở nào đó để về cái vẻo đất dưới bến này tìm kế mưu sinh nuôi mẹ già đã ở độ tuổi gần đất xa trời. Trong quan niệm, trước đây ngụ cư là một lí lịch không được chấp nhận để người có mặt trong sinh hoạt nơi cộng đồng làng xã. Vậy mà Tràng lấy được vợ mà thậm chí là cho không chỉ sau hai lần gặp và bốn bát bánh đúc, một câu hò nữa đùa nữa thật “ muốn ăn cơm trắng với giò này, thì đẩy xe bò với anh, nì” . Đọc “Vợ nhăt” một tác giả đã viết:
Điểm nhìn nhân vật: chuyển dịch điểm nhìn từ ngoài vào trong, từ tác giả sang nhân vật.
*Điểm nhìn bà cụ Tứ
*Điểm nhìn của Tràng
Sự gia tăng điểm nhìn: lũ trẻ và dân làng trước sự kiện nhặt được vợ của Tràng trước hoàn cảnh cái đói hoành hành, cái chết ập đến bất cứ lúc nào cũng có những suy nghĩ khác nhau. Lũ trẻ vốn vì cái đói mà bấy lâu nay cũng chẳng buồn cười đùa, nay cũng xớn xác trêu đùa Tràng “Chông vợ hài”. Còn những người khác “cũng có cái gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”, họ bàn tán về cô dâu mới, rồi họ lại lo lắng “biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không” rồi họ nín thinh. Tình huống truyện được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau
Điểm nhìn không gian: không gian chủ yếu trong “Vợ nhặt” được Kim Lân miêu tả là không gian hẹp trong xóm ngụ cư, trong căn nhà nghèo bà cụ Tứ, quán nước cổng chợ tỉnh, nhà kho, dốc tỉnh [nơi gặp gỡ của Tràng và thị]. Không gian làng xóm, lều chợ , con đường ngổn ngang xác chết. Có biết bao con đường, bao xác chết như vậy ở làng quê VN. Căn nhà của bà cụ Tứ ở là căn nhà nhỏ vắng teo, chỉ có tấm phên rách, mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại, bát niêu, quần áo vứt bừa bộn. Đây là căn nhà điển hình cũng giống như bao căn nhà khác, gia đình khác ở các làng quê nghèo-> từ đó suy rộng ra không gian làng quê Việt Nam, nơi mà những con người nghèo khổ đang ngày ngày đối mặt với cái đói, cái chết cận kề. Hiện thực về nạn đói 1945 được đề cập gián tiếp đến trong tác phẩm. 2 triệu người VN đã chết trong nạn đói năm ấy, nhưng trong mỗi con người VN nói chung và bà cụ Tứ, Tràng , Thị nói riêng vẫn chan chứa tình yêu thương, hi vọng, tìm đường sống trong sự chết.
Việc tìm hiểu điểm nhìn của người kể chuyện trong “Vợ nhặt” góp phần không nhỏ vào việc khẳng định sự độc đáo, hấp dẫn trong nghệ thuật tự sự của tác phẩm: Khi thì là điểm nhìn bên ngoài, lúc lại là điểm nhìn bên trong có khi lại là phối hợp, di chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong. Với cách tổ chức điểm nhìn của người trần thuật như vậy, Kim Lân đã chứng tỏ được tài năng của mình trong việc kể chuyện, dẫn chuyện, và đặc biệt là khả năng thâm nhập sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật để phản ánh được cả những góc khuất của nó. Đọc truyện của ông, người đọc như được sống lại những năm gian khổ của đất nước nhưng không phải là những tang thương, xám xịt mà là trong những tình cảm yêu thương đáng quý, những hi vọng vào tương lai con người.
Điểm nhìn tác giả - từ ngôi kể: cái nhìn khách quan, toàn tri
Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã lựa chọn hình thức kể chuyện truyền thống –kể theo ngôi thứ 3. Đây là hình thức người kể chuyện giấu mặt, coi như đứng ở một vị trí nào đó trong không gian và thời gian, bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra trọn vẹn và thuật lại với người đọc. Câu chuyện đời sống được diễn ra tự nhiên qua lời kể của người kể chuyện vô hình. Sự lựa chọn hình thức kể này giúp nhà văn mở rộng tối đa chân trời sáng tạo của mình. Cái được kể không bị bó hẹp.
Sự độc đáo trong điểm nhìn trần thuật của “Vợ nhặt” trước hết tạo nên bởi điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện. Điểm nhìn bên ngoài đã tạo ra tính khách quan tối đa cho trần thuật. Các sự kiện diễn ra tự nhiên như cuộc đời vốn thế, nó giúp nhà văn bao quát nhiều phương diện và góc độ của hiện thực cuộc sống. Người kể chuyện ẩn mình để câu chuyện được kể đạt mức độ khách quan cao nhất: cho phép người kể chuyện đứng từ bên ngoài quan sát truyện thuật lại sự việc bằng một cái nhìn khách quan, thâu tóm các sự kiện tình tiết, thúc đẩy diễn biến các tình tiết của truyện phát triển. Điểm trung tâm trong sơ đồ cốt truyện là sự kiện anh Tràng nhặt được vợ giữa bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang ở giai đoạn kinh hoàng nhất. Từ sự kiện quan trọng này, các nhân vật khác lần lượt bước vào tác phẩm để tạo thành một bức tranh đời sống trước mặt người đọc.
“Biến bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi
Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt”
Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc
Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”
Chữ “nhặt” trong “Vợ nhặt” không phải là “nhặt” như chúng ta đã nhầm tưởng. Nếu chỉ đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết hợp từ rất đặc biệt. Nói như Kim Lân “nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ”. Như vậy ‘nhặt” trong “Vợ nhặt” là một vật vì cái đói nó đã đẩy con người đến những tình huống bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúm, có thể nhặt được như người ta nhặt bất cứ thứ gì. Phải đặt vào truyền thống của nhân vật “coi người ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự, người đọc mới thấy đươc “vợ nhặt” theo kiểu bi đát như thế nào? Song người ta dắt nhau về không phải chỉ vì đói khổ, cần có một chốn nương thân, thẳm sâu trong câu chuyện là khao khát về một mái ấm gia đình, tình yêu thương đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người dân lao động. Cái đói là ghê ghớm nhưng đằng sau cái đói Kim Lân muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người. Đó chính là chiều sâu nhân bản của con người.
Nhìn từ bên ngoài, người kể chuyện lặng lẽ đứng vào một góc để quan sát và kể lại chuyện với sự kiện và con người như vốn có. Nhưng đằng sau những câu văn khách quan ấy lại ẩn chứa nỗi lòng đau đáu của Kim Lân như muốn chia sẻ với nhân vật của mình, thương cảm cho những số phận và đặc biệt càng thêm trân trọng những con người đó.
Điểm nhìn thời gian
Thời gian trong tác phẩm là thời gian của quá khứ-hiện tại-tương lai theo trình tự tuyến tính
-Quá khứ: đẩy xe gạo lên tỉnh, mỗi lần qua nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy, hắn thường hò một câu cho đỡ nhọc, cũng chẳng chủ tâm chòng ghẹo cô nào, hắn quen Thị. Đến lần 2 , hắn đãi thị ăn 4 bát bánh đúc, lại tình cờ “nhặt” được thị về.
- Hiện tại: đưa nhau về nhà giữa cái cảnh cái đói tràn vào khắp nơi giống như bóng tối cuối ngày chuẩn bị che lấp khắp bầu trời, chẳng biết có thấy ánh sáng của ngày mai.
- Tương lai: đói khổ, khó khăn và hình ảnh lá cờ khởi nghĩa mang hi vọng cho người nông dân nghèo. “Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo kéo nhau ầm ầm đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm” , “nghe láng máng người ta nói họ là Việt Minh đấy”. Ánh sáng của cách mạng mặc dù chưa rõ ràng nhưng đã bắt đầu xuất hiện, đem đến viễn cảnh mới cho những con người may mắn còn sống sót qua cơn đói và đang đối mặt với cái chết từng ngày.
Tạo ra sự dịch chuyển điểm nhìn theo thời gian của nhà văn. Quá khứ, hiện tại xen lẫn nhau, điểm nhìn di chuyển, thay đổi theo từng thời điểm được kể. Vì vậy, điểm nhìn được gia tăng giúp người trần thuật tái hiện đây đủ các sự kiện được diễn ra trong cuộc đời nhân vật, giúp người đọc hiểu rõ gốc gác, ngọn ngành, xuất xứ của câu chuyện và hiểu sâu hơn về nhân vật.
Bằng sự di chuyển linh hoạt điểm nhìn, người kể chuyện trong “Vợ nhặt” – Kim Lân đã chứng tỏ được cái nhìn đa chiều, nhiều góc độ về cuộc sống và con người nghèo vùng nông thôn trong nạn đói 1945. Lời văn qua đó mà trở nên khách quan, có sức hấp dẫn người đọc. Điều đó cũng góp phần làm cho tư tưởng, chủ đề tác phẩm sinh động, gợi nhiều liên tưởng ở người đọc.