Người Công giáo thờ cúng to tiên

Thờ cúng ổ ên là mộ ín ngưỡng lâu đờ của ngườ Vệ Nam, ục hờ cúng ổ ên đã hực sự ăn sâu rong đờ sống xã hộ và âm hức ân ộc Vệ Nam. Trong mọ ga đình ngườ Vệ Nam ừ lâu ín ngưỡng này đã rở hành đạo lý “uống nước nhớ nguồn” rên nền của “đạo hếu”. Từ ổ ên vớ ư cách huyế hống ga ộc đến cả ân ộc; ân cả nước hờ các vua Hùng, kính hếu mẹ Âu Cơ, các anh hùng ân ộc… Còn ân nghĩa vớ cha mẹ hực bấ ận, bấ ệ, công cha như rờ, nghĩa mẹ như bển. Đạo hờ cúng ổ ên đó của ân ộc Vệ Nam đã hực sự là mộ né đẹp văn hoá của những con ngườ hên về “rọng ình” hơn “rọng lý”.

Ngườ Vệ quan nệm rằng, con ngườ có hồn và xác, xác hì có chế nhưng hồn hì ồn ạ mã ở hế gớ khác, mà hồn mớ là yếu ố cao quý của mộ con ngườ. Hồn và xác lên kế vớ nhau ạo nên snh vậ hoạ động được. Lnh hồn chỉ hoá ra khỏ hể xác kh hực sự đã chế. Ngườ Vệ quan nệm “Dương sao âm vậy”, con ngườ sau kh chế còn có mộ cuộc sống nơ suố vàng gống như cuộc sống nơ rần hế vớ những nhu cầu ấ yếu như ăn, mặc, ch êu và cả ích luỹ phòng kh bấ rắc. Do vậy, những ngườ hân cần cúng gỗ để ổ ên không bị hếu hốn nơ âm gan, nơ chín suố. Ngườ Vệ cho rằng “chín suố” là nơ snh ồn của lnh hồn ổ ên sau kh hác, gống như cõ Nế Bàn rong quan nệm của Phậ gáo, nơ Thên Đàng của Công gáo.

Vớ quan nệm như vậy, ngườ Vệ co vệc cúng gỗ là mộ đạo hếu và họ không bao gờ bỏ cúng gỗ ông bà cha mẹ, cúng gỗ ổ ên của mình. Vệc cúng gỗ là bểu hện mố ây lên kế mậ hế gữa ổ ên – những ngườ đã khuấ vớ con cháu – những ngườ còn sống. Hay chính là bểu hện mố quan hệ gữa ha hế gớ của ngườ sống và ngườ đã hác.

Tuy nhên, hờ cúng ổ ên có ính rêng bệ rong ừng nhóm xã hộ – ôn gáo cụ hể, uỳ huộc vào nềm n và quan nệm cụ hể của mỗ nhóm xã hộ – ôn gáo này. Ngườ vô hần hì không n có lnh hồn và cuộc sống sau kh chế, họ quan nệm “chế là hế”. Ngườ Phậ ử hì quan nệm đờ sống con ngườ gắn chặ vớ kếp. Sau kh chế nếu hồn chưa hoá được nghệp chướng sẽ vẫn còn bị vướng vào vòng luân hồ để quay rở lạ mộ kếp nào đó ương xứng vớ những gì mình đã làm rong kếp rước. Do vậy, Phậ gáo chủ rương không sá snh vì có hể động vậ ấy là mộ snh lnh đầu ha ừ kếp rước. Vớ quan nệm này vệc báo hếu ổ ên được hực hện bằng những ngh lễ cầu sêu ho phương hức nhà Phậ, nhà có ang ma sẽ mờ sư hầy đến ụng knh cho ngườ chế mau sêu độ; đến ngày lễ Vu Lan con cháu đến chùa âng lễ cúng Phậ cầu cho cha mẹ. Lễ Vu Lan ho quan nệm Phậ gáo là ngày Phậ đạ xá, những vệc lành con cháu làm rong ngày này hì cha mẹ được hưởng phúc. Vớ Công gáo hì khác, rong Knh Thánh nêu rõ hờ phụng ngườ chế, hay ngay cả ưởng nhớ ngườ khuấ mặ, là rá vớ Knh Thánh:

Knh Thánh ạy rằng chúng a không được hờ phụng hay cầu nguyện vớ ngườ đã chế. Sự hờ phụng chỉ ành độc nhấ cho hên chúa và chỉ hên chúa mà hô, cho ù đó là vớ ổ ên hay súc vậ, hay ượng đá hoặc ượng đúc hoặc các ay đền knh chuyên nghệp, hoặc các sêu sao nhạc Rock vân vân. Trong kh đó hì có sự hực rằng lố sống ộ lỗ của đờ rước có hể để lạ các ảnh hưởng xấu cho nhều đờ sau. [Knh hánh Exo 20:5; và Acs 7:51-52]

Vấn đề hờ cúng ổ ên của Công gáo ạ Vệ nam nó rêng, ở phương Đông mà chủ yếu là Trung Quốc kéo ho sự quan âm của hơn chục vị Gáo hoàng rên nhều ngả vớ những cuộc ranh luận gữa các hừa sa huộc các òng ruyền gáo khác nhau. Trong kh các lnh mục òng Tên ở Trung Quốc không lên án cúng ế Khổng Tử và ông bà ông vả, hì các hừa sa Pháp ở Vệ Nam lạ phản đố quyế lệ vì cho rằng ngh lễ ấy là rố đạo không khác gì lễ ngh hờ Bụ, hờ Thần [Nguyễn Hồng Dương: Ngh lễ và lố sống Công gáo rong văn hoá Vệ Nam. Nxb KHXH, HN, 2001, r. 202.].

Gáo hoàng Clmn XI [1700 – 1721] ổ chức mộ hộ nghị gồm các gám mục để bàn về vấn đề này và sau đó chấp nhận bản nghị quyế của Toà Đều ra rong Tông hến đề ngày 20-11-1704. Tho đó Gáo hoàng buộc các gám mục, lnh mục của ấ cả các òng ruyền gáo đều phả uân ho Toà hánh rong vệc bác bỏ hờ cúng ổ ên. Không chấp nhận bấ kể sự khếu nạ nào. Gáo hoàng Clmn XI còn ban hành Tông chếu Exlla đề ngày 19-3-1715, nhắc lạ ha Tông hến 1704 và 1710 và Sắc lệnh Nam Knh 1707 phạ vạ uyệ hông những a không uân phục Toà hánh La Mã về những lễ ngh đã bị bác bỏ, buộc các hừa sa ở phương Đông [rong đó có Vệ Nam] phả uyên hệ rung hành vớ Toà hánh La Mã rong vấn đề này. Gáo hoàng Bnco XIV [1740 – 1758] ban hành Tông chếu Exquo đề ngày 11-7- 1742 ruyền phả uân ho Tông chếu Exlla [1715], phạ vạ uyệ hông ấ cả những a bấ uân. Đến lúc đó cuộc ranh luận hờ cúng ổ ên ạm chấm ứ.

Thá độ ứng xử ừ các đoàn ruyền gáo vớ vấn đề hờ cúng ổ ên ạ Vệ Nam

Dòng Đa Mnh: Dòng Đa Mnh là mộ rong những òng ruyền gáo có mặ đầu ên ạ Vệ Nam. Năm 1679, Toà hánh La Mã cha địa phận Đàng Ngoà hành ha: địa phận Tây và Đông Đàng Ngoà. Địa phận Đông Đàng Ngoà được gao cho òng Đa Mnh ca quản. Có hể nó, rong các òng ruyền gáo ở Vệ Nam hì òng Đa Mnh có há độ êu cực nhấ đố vớ vấn đề hờ cúng ổ ên.

Ngày 7-6-1759, Par lu Huy bề rên cả đạ ện ông oà quản địa phận Đông ra hư gử cho các gáo sĩ và gáo ân địa phận nó về 36 “sự rố nước An Nam, Đức Thánh Pha Pha đã đoán ph”, rong đó có nhều “sự rố” về hờ cúng ổ ên [ Những hư chọn rong các hư chung…Q1. In ạ Kẻ Sặ, 1903. Tr. 11-19.]. Năm 1796, Đức hày Phê ra hư gử bổn đạo địa phận Đông nhắc lạ vệc cấm làm nhà áng, kh đưa xác không được đ kệu ông hánh nọ, bà hánh ka [Những hư chọn rong các hư chung…Q1. In ạ Kẻ Sặ, 1903. Tr. 46]. Dòng Đa Mnh có đưa ra mộ số lễ hức cho vệc “đưa xác” ngườ qua đờ, chấp nhận mộ số phong ục như nhận câu đố phúng vếng của ga quyến rong ang ma. Tuy nhên các câu đố đó phả đảm bảo nguyên ắc “không có đều gì phạm sự đạo”.

Hộ ruyền gáo Pars [MEP]: Về ổng hể hì quan đểm vẫn là nghêm cấm gáo ân hực hành hờ cúng ổ ên. Tạ Huế, rong mộ hờ gan à, các hừa sa hộ Truyền gáo Pars và các hừa sa òng Tên bấ đồng vớ nhau về cách nhìn nhận và ứng xử vớ hờ cúng ổ ên. Tư lệu lịch sử cho bế mộ số địa phận đặ ướ quyền ca quản của hộ Truyền gáo Pars, gáo ân được phép hực hện hình hức cúng hậu. Hình hức cúng hậu vào nhà hờ Công gáo được uy rì đến gữa nửa hế kỷ XX. Thờ đểm cuố hế kỷ XIX ngày càng nhều ngườ nộp ền của, đấ đa vào nhà hờ để xn lễ hậu. Ngườ xn cúng hậu gồm cả ngườ có con ra và ngườ không có con ra nố õ. Đô kh con ra của ngườ nào đó đm ruộng đấ, hương hoả của cha mẹ để lạ cúng hậu vào nhà hờ để hàng năm nhà hờ lo cầu nguyện lnh hồn cho bố, mẹ [hoặc có kh cả ông bà] vào ngày gỗ. Dần ần, cúng hậu đã rở hành mộ vấn đề mà không chỉ lnh mục, gám mục mà cả Toà hánh La Mã quan âm. Năm 1905, Toà hánh La Mã ban sắc ruyền về cúng hậu. Trong vệc ưởng nhớ ngườ qua đờ, gáo hộ Công gáo lấy ngày 2-11 hàng năm để cầu cho các ín hữu đã qua đờ và cầu cho các đẳng hoặc cầu cho các lnh hồn nơ luyện ngục. Đây là ịp để các ín hữu cầu cho các lnh hồn của ngườ hân đã quá cố được nhẹ ộ và có hể lên Thên đàng.

Vấn đề hờ cúng ổ ên được bàn rở lạ nửa đầu hế kỷ XX vớ Huấn ụ Plan Comprn s của Thánh bộ Truyền gáo La Mã, được gáo hoàng Pô XII chấp huận ngày 7-12-1939. Huấn ụ bác bỏ ha Tông chếu Exquo [1742] và Exlla [1715]. Tếp ho gáo hoàng ra sắc lệnh Summ Porfcanus công nhận những ngh lễ hờ cúng ổ ên không phả là những ngh lễ đích anh ôn gáo, mà chỉ là những bểu hị lòng sùng bá chính đáng đố vớ những bậc à đức rong nước cũng như lòng hếu hảo đố vớ ngườ quá cố.

Chủ Đề