Nhà Lý ra đời trong hoàn cảnh nào lớp 4

Bài 1 trang 38 SGK Lịch sử 4: Nhà Trần thành lập. Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào ?

Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào ?

GỢI Ý LÀM BÀI

Đến cuối thế kỉ XII, nhà Lý ngày càng suy yếu. Chính quyền không chăm lo đến đời sống của dân ; nội bộ triều đình mâu thuẫn, nhân dân sống cơ cực ; nhiều nơi dân nghèo nổi dậy đấu tranh. Quân xâm lược phương Bắc thường xuyên rình rập. Vua Lý phải dựa vào họ Trần mới giữ được ngai vàng. Từ đó, mọi việc trong triều đình đều do Trần Thủ Độ quyết định.

Lý Huệ Tông không có con trai, truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng, mới 7 tuổi. Trần Thủ Độ tìm cách để Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, rồi nhường ngôi cho chồng [đầu năm 1226]. Nhà Trần được thành lập.

Nhà Lý được thành lập như thế nào ?

Nhà Lý được thành lập như thế nào?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk trang 35 để trả lời.

- Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, là một ông vua tàn bạo nên trong triều ai cũng căm phẫn.

- Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời, các tăng sư và đại thần đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà Lý thành lập.

Bài viết gồm 2 phần: 

  • Ôn tập kiến thức lý thuyết
  • Hướng dẫn giải các bài tập

 

A. Kiến thức trọng tâm

1. Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần

  • Cuối thế kỉ XII, nhà Lý suy yếu. Giặc phương Bắc lăm le xâm lược nước ta.
  • Nhà Lý phải dựa vào họ Trần mới giữ được ngai vàng.
  • Vua Lý Huệ Tông không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng.
  • Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh và nhường ngôi cho chồng

=>Đầu năm 1226 nhà Trần được thành lập.

2. Nhà Trần củng cố và xây dựng đất nước

  • Vua đặt lệ nhường ngôi sớm cho con, cùng trông nom việc nước.
  • Cả nước chia thành các lộ, phủ, châu, huyện, xã để cai quản.
  • Đặt chuông trước cung điện để nhân dân đến đánh chuông khi có điều oan ức hoặc cầu xin.
  • Thanh niên trai  tráng  mạnh  khỏe  được  tuyển  vào quân đội, thời bình  thì  sản xuất,  khi có chiến tranh thì tham gia chiến đấu.
  • Nhà Trần quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp. Đặt thêm các chức quan Hà đê sứ, Khuyến nông sứ, Đồn điền sứ.

CH: Em có nhận xét gì về quan hệ giữa vua với quan, vua với dân dưới thời nhà Trần?

Trả lời:

  • Dưới thời nhà Trần: Vua với quan và dân gần gũi với nhau. Điều đó thể hiện qua việc vua Trần cho đặt chuông lớn ở thềm cung điện để dân đánh khi có điều gì cầu xin hoặc oan khất. Trong các buổi yến tiệc, vua và quan nắm tay nhau, ca hát vui vẻ…

CH: Những việc làm trên của các vua Trần nhằm để làm gi?

Trả lời:

  • Những việc làm trên của các vua Trần nhằm để củng cố và xây dựng đất nước Đại Việt ngày càng phát triển, nhân dân càng no đủ.

B. Bài tập và hướng dẫn giải

Câu 1: Trang 38 – sgk lịch sử 4

Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào?


Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh:

  • Cuối thế kỉ XII, nhà Lý suy yếu. Giặc phương Bắc lăm le xâm lược nước ta.
  • Nhà Lý phải dựa vào họ Trần mới giữ được ngai vàng.
  • Vua Lý Huệ Tông không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng.
  • Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh và nhường ngôi cho chồng

=> Đầu năm 1226 nhà Trần được thành lập.


Từ khóa tìm kiếm Google: nhà trần thành lập, hoàn cảnh thành lập nhà trần, bối cảnh nhà trần ra đời, giải câu 1 bài 12 lịch sử 4.

Cùng Toplời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Nhà Lý được thành lập trong hoàn cảnh nào?"và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Lịch sử 7

Trả lời câu hỏi: Nhà Lý được thành lập trong hoàn cảnh nào?

- Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, là một ông vua tàn bạo nên trong triều ai cũng căm phẫn.

- Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời, các tăng sư và đại thần đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi. Nhà Lý thành lập.

Kiến thức mở rộng về Sự thành lập của nhà Lý

I. Sự thành lập nhà Lý

1. Sự thành lập:

- Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi vua.

- Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời. Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Nhà Lý thành lập.

- Năm 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên, dời đô về Đại La [nay là Hà Nội], đổi tên thành là Thăng Long.

2. Đôi nét về nhà Lý

- Trong thời đại của vương triều này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn hai trăm năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm, ngoài ra nhà Lý còn bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của mình. Trong nước, mặc dù các vua đều sùng báiđạo Phật, nhưng ảnh hưởng củaNho giáođã bắt đầu lớn dần, với việc mở các trường đại học đầu tiên làVăn miếu[1070] vàQuốc tử giám[1076], và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân làquý tộcra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm1075. Về thể chếchính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vàopháp luậthơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thànhĐại Lalàm thủ đô [sau làThăng LongtứcHà Nộingày nay] đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnhkinh tếvà lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước.

- Ở thời này có những sự kiện đáng nhớ củalịch sử Việt Nam: việc dời đô từHoa Lư, một nơi ở góc đông nam đồng bằng Bắc Bộ, thưa dân, hiểm trở raĐại La, rồi đặt tên mới làThăng Longtheo hình tượng con rồng, một hình tượng đặc thù của thời này; quốc hiệuĐại ViệtcủaViệt Namcó từ tháng 10 âm lịch năm1054và được duy trì đến đầuthế kỷ 19;Văn MiếuvàQuốc tử giám, biểu tượng của văn hiến Việt Nam, được xây dựng; và việc thi cử cũng như hệ thống pháp luật bằng văn bản bắt đầu có dưới triều đại này.

3. Bộ máy nhà nước thời Lý

- Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt.

- Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành. Vua ở ngôi theo chế độ cha truyền con nối.

- Các chức vụ quan trọng nhà vua đều cử những người thân cận nắm giữ. Giúp vua lo việc nước có các đại thần, các quan văn, võ.

-Ở các địa phương, nhà Lý chia cả nước thành 24 lộ, phủ [ở miền núi gọi là châu], đặt các chức tri phủ, tri châu; giao cho con cháu nhà vua hoặc các đại thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương và xã.

II. Các đời vua nhà Lý

Người khởi đầu cho triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn. Dưới triều vua Lê Long Đĩnh, Lý Công Uẩn là một quan võ giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, khi vua Lê Long Đĩnh qua đời, do có đức, có tài mà Lý Công Uẩn được một số thế lực trong triều đình tôn lên làm Vua. Triều đại nhà Lý trải qua 9 đời vua, trị vì đất nước trong thời gian 126 năm.

1/Vua Lý Thái Tổtên thật làLý Công Uẩn

2/Vua Lý Thái Tôngtên thật làLý Phật Mã

3/Vua Lý Thánh Tôngtên thật làLý Nhật Tôn

4/Vua Lý Nhân Tôngtên thật làLý Càn Đức

5/Vua Lý Thần Tôngtên thật làLý Dương Hoán

6/Vua Lý Anh Tôngtên thật làLý Thiện Tộ

7/Vua Lý Cao Tôngtên thật làLý Long Cán

8/Vua Lý Huệ Tôngtên thật làLý Hạo Sảm

9/Vua Lý Chiêu Hoàngtên thật làLý Phật Kim

- Từ năm 1225 thì triều đại nhà Lý chuyển giao sang triều đại nhà Trần.

* Vì sao Lý Thái Tổ chọn vùng đất Đại La làm kinh đô?

Mùa xuân năm 1010, một lần từ kinh đô Hoa Lư trở lại thăm quê nhà ở Cố Pháp [Bắc Ninh], Lý Thái Tổ có ghé qua thành cũ Đại La [nay là Hà Nội]. Vua thấy đây là vùng đất ở trung tâm đất nước, đất rộng bằng phẳng, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Càng nghĩ, vua càng tin rằng muốn cho con cháu đời sau xây dựng được cuộc sống ấm no thì phải rời đô từ miền núi chật hẹp Hoa Lư về vùng đất đồng bằng rộng lớn màu mỡ này.

Trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi “Nhà Lý ra đời trong hoàn cảnh nào?” và phần kiến thức tham khảo là tài liệu cực hữu dụng bộ môn Lịch sử lớp 4 cho các bạn học sinh và các thầy cô giáo tham khảo.

Trả lời câu hỏi:Nhà Lý ra đời trong hoàn cảnh nào?

- Năm 1005, Lê Hoàn mất Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Đây là vị vua cuối cùng nhà nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh. Vào những năm cuối đời, sách sử đa số nhận định rằng Lê Long Đĩnh là một hôn quân.

- Năm 1009, Lê Long Đĩnh qua đời, các con còn quá nhỏ. Các tăng sư và đại thần đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc đã tôn Lý Công Uẩn [khi đó đang giữ chức Điện tiền Chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư] lên làm vua. Nhà Lý ra đời.

Hãy để Top lời giải giúp bạn tìm hiểu thêm những kiến thức thú vị hơn về nhà Lýnhé

Kiến thức tham khảo vềNhà Lý

1. Tình hình chính trị

Thể chế chính trị của nhà Lý được hoàn thiện trong các thế kỷ XI – XIII [từ 1010 – 1225] là một chế độ chính trị ổn định và thống nhất, trên có vua, dưới vua là hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất từ trung ương tới địa phương. Điều hành hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất của nhà Lý là đội ngũ quan chức đông đảo được tuyển chọn bằng nhiều hình thức khác nhau. Quá trình tuyển chọn được quản lý vô cùng gắt gao.

Bộ máy trung ương: Đứng đầu là Vua chuyên chế, quan trong triều đình được chia làm hai ngạch: quan văn và quan võ. Quan văn giữ trọng trách về hành pháp, đứng đầu là Thái Thư, quan võ nắm giữ tề binh, đứng đầu là Tể Tướng.

Bộ máy cấp địa phương: Dưới thời Lý, chính quyền địa phương bao gồm 3 cấp: “lộ – trại” [đứng đầu là Thông phán – Chủ trại]; “phủ – châu” [Tri phủ – Tri châu] và hương, xã, sách. Nhìn chung dưới thời Lý, các cấp cơ sở chưa thực sự được quan tâm, đốc thúc.

Tổ chức quân đội được đặc biệt quan tâm, các cuộc tuyển chọn được diễn ra hằng năm với chính sách chính sách “ngụ binh ư nông” nhằm tìm ra những thanh niên trai tráng bảo vệ kinh thành.

2. Tình hình kinh tế

a, Nông nghiệp

Chế độ ruộng đất

Ruộng công, gồm các loại:

+ Quốc khố điền là ruộng công của triều đình mà hoa lợi thu được dự trữ vào kho của vua để chi dùng cho hoàng cung. Người cày cấy trên ruộng của vua là người bị tù tội, có thân phận như nô tỳ.

+ Đồn điền là việc tổ chức khai hoang ven sông, ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam. Lực lượng lao động chủ yếu ở đây là tù binh chiến tranh.

+ Ruộng tịch điền là loại ruộng do triều đình trực tiếp quản lý, hoa lợi dùng cho triều đình. Hằng năm, nhà Lý vẫn duy trì cày ruộng tịch điền. Nhà Lý đặt ruộng tịch điền ở Bố Hải Khẩu, Ứng Phong và Lý Nhân.

+ Ruộng sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ tiên dòng họ nhà vua

+ Ruộng công làng xã là ruộng giao cho các làng xã quản lý, do những người lính nhàn thời bình về cày cấy [theo chính sách "ngụ binh ư nông"]. Hoa lợi thu được từ ruộng này để nuôi quân.

+ Ruộng thác đao và ấp thang mộc là ruộng ban thưởng cho quan lại, công thần. Hai hình thức này chỉ dành cho 1 đời công thần, không truyền được cho con cháu và công thần cũng chỉ được hưởng phần thuế thu từ ruộng đó

+ Ruộng đất nhà chùa: Là đất đai do các nhà chùa quản lý,số ruộng đất đó chiếm số lượng khá lớn. Năm 1086 triều đình chia các chùa ra ba loại: đại danh lam, trung danh lam và tiểu danh lam.

+ Ruộng tư: Chế độ sở hữu ruộng tư thời Lý khá phổ biến cũng như rất phát triển. Pháp luật cho phép các tầng lớp trong xã hội mua bán ruộng đất. Để ngăn chặn sự lấn chiếm của các nhà giàu có quyền thế, năm 1143 và 1015, Lý Anh Tông ra quy định cấm các nhà quyền thế được ngăn cấm xằng bậy người nghèo ngoài phạm vi ruộng ao của mình, làm trái thì có tộ

Việc đo đạc ruộng đất thời Lý đã xuất hiện, nhưng đơn vị đo lường tính chưa thống nhất; nơi tính theo mẫu, nơi tính bằng thước.

Sản xuất nông nghiệp và làm thủy lợi

Nhà Lý áp dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay nhau về làm ruộng, có tác dụng phát triển sản xuất nông nghiệp, sức lao động không bị thiếu. Binh sĩ thay nhau nghỉ 1 tháng 1 lần về cày ruộng tự cấp.

Ngoài ra, nhà Lý còn chú trọng việc trị thủy, đắp đê, nhất là vùng châu thổ sông Hồng. Năm 1077 và 1103, Lý Nhân Tông ra lệnh đắp đê sông Như Nguyệt dài 67.380 bộ. Năm 1108, triều đình tổ chức đắp đê Cư Xá [sông Hồng] từ Yên Phụ đến Lương Yên. Ngoài Thăng Long, đê điều cũng được tu tạo. Các công trình thủy lợi tiêu biểu thời Lý là việc đào sông Đản Nãi [Thanh Hóa] năm 1029, đào kênh Lãm [Ninh Bình] năm 1051, khơi sâu sông Lãnh Kinh năm 1089 và sông Tô Lịch năm 1192.

Nhờ sự quan tâm phát triển nông nghiệp và làm thủy lợi của nhà Lý, nước Đại Việt có thế đứng và phát triển khá vững chắc, đời sống nhân dân tương đối ổn định. Sử sách ghi nhận những năm được mùa lớn như: 1016, 1030, 1044, 1079, 1092, 1111, 1120, 1123, 1131, 1139, 1140

b, Thủ công nghiệp và thương nghiệp

Thủ công nghiệp

- Thủ công nghiệp trong dân gian được phát triển như trồng dâu, nuôi tầm, kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, làm đồ trang sức, vàng bạc, làm giấy, đúc đồng.

- Những công trình nổi tiếng như chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên [Hà Nội], vạc Phổ Minh [Nam Định]...

Thương nghiệp

- Buôn bán trong nước được mở rộng, Thăng Long là trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước.

- Buôn bán tấp nập ở biên giới Lý - Tống, bến Vân Đồn [Quảng Ninh] là nơi buôn bán sầm uất.

3. Xã hội thời Lý

- Giai cấp thống trị:

+ Vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị.

+ Một số hoàng tử, công chúa, quan lại được nhà nước phong cấp ruộng đất đã trở thành địa chủ.

+ Một số ít dân thường, do có nhiều ruộng, cũng trở thành địa chủ có thế lực ở địa phương.

- Giai cấp bị trị:

+ Nông dân chiếm đa số trong dân cư. Họ là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Các đinh nam được chia ruộng theo tục lệ của làng xã và phải làm nghĩa vụ cho nhà nước. Những nông dân nghèo phải cày ruộng, nộp tô cho địa chủ, có người phải rời bỏ quê hương đi khai hoang, lập nghiệp ở nơi khác.

+ Nô tì vốn là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nần hoặc tự bán thân; họ phải phục vụ trong cung điện hoặc các nhà quan.

+ Ngoài ra, trong xã hội còn có người làm nghề thủ công, buôn bán. Họ sống rải rác ở các làng, rèn nông cụ, sản xuất các đồ dùng cần thiết hàng ngày và trao đổi cho nhau. Họ phải nộp thuế và làm nghĩa vụ với nhà vua.

4. Giáo dục và văn hóa thời Lý

a. Giáo dục

- Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long. Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Nhà nước quan tâm đến giáo dục, khoa cử. Năm 1076, mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta. Chế độ thi cử chưa đi vào nền nếp và quy củ. Việc xây dựng Văn Miếu và Quốc tử giám đánh dấu sự ra đời của nền giáo dục Đại Việt.

- Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.

b, Văn hóa

-Các vua Lý rất sùng đạo Phật, khắp nơi đều dựng chùa, tỏ tượng, đúc chuông...

- Hoạt động ca hát. nhảy múa, trò chơi dân gian, kiến trúc, điêu khắc... đều phát triển, với phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt, tiêu biểu là chùa Một Cột, tượng Phật A-di-đà, hình rồng thời Lý.

- Kiến trúc rất phát triển, tiêu biểu là tháp Báo Thiên, chùa Một Cột...

- Nghệ thuật tinh xảo, thanh thoát, tiêu biểu là rồng thời Lý...

Những thành tựu về văn hoá, nghệ thuật đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc - Văn hoá Thăng Long.

Video liên quan

Chủ Đề