Nhà nước và Đảng cầm quyền có mối quan hệ như thế nào

Đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo; quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày phát hành: 04/04/2020 Lượt xem 13937

1. Quan niệm đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo


1] Quan niệm đảng cầm quyền

Đảng là khái niệm rất rộng - tổ chức của một nhóm người, một phe phái có cùng quan điểm, cùng chí hướng, thực hiện một mục đích. Khái niệm đảng trong bài viết này là đảng chính trị - tổ chức đại diện cho một cộng đồng lớn, một giai cấp, có tôn chỉ, mục đích thực hiện ý chí và lợi ích của cộng đồng, của giai cấp.

Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào mô hình chế độ chính trị khác nhau mà ở đó có một hay nhiều đảng cạnh tranh, đấu tranh với nhau để nắm quyền lãnh đạo xã hội, thực hiện mục đích của mỗi đảng. Để thực hiện được mục đích của mình,, nhiệm vụ đầu tiên của mỗi đảng chính trị là phải nắm được chính quyền [nắm giữ quyền lực nhà nước] để lãnh đạo nhà nước, triển khai chủ trương, đường lối chính trị của đảng.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, đảng cầm quyền là đảng chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh giữa nhiều đảng. Đảng thắng cử đứng ra thành lập chính quyền, đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước, đại diện cho công dân cả nước. Theo quan niệm này, trên thế giới có nhiều cách thức và mô hình cầm quyền, song chủ yếu xoay quanh 2 mô hình chính: mô hình Nghị viện và mô hình Tổng thống.

Sự cầm quyền của mô hình Nghị viện: Đảng cầm quyền là đảng chính trị hoặc liên minh chính trị chiếm đa số trong nghị viện. Trong cơ quan lập pháp [quốc hội], đảng này nắm quyền hành pháp - Chính phủ [Thủ tướng]. Sự cầm quyền của mô hình Tổng thống: Đảng cầm quyền là đảng của tổng thống - người đã được nhân dân lựa chọn [qua cuộc bầu cử tổng thống]. Tổng thống đứng đầu cơ quan hành pháp. Quyền lực tổng thống do vậy, ưu trội hơn quyền lực của quốc hội [lập pháp].

Quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản khác với quá trình cầm quyền phổ biến nêu trên - do bản chất và sứ mệnh chính trị đặc thù của đảng. Tôn chỉ, mục đích, lý tưởng của Đảng Cộng sản là đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến tới chủ nghĩa cộng sản - chế độ tiến bộ nhất của loài người. Về lý thuyết, đảng cộng sản có thể giành chính quyền trong nhà nước tư sản, song trong thực tế, điều đó là không thể, bởi thể chế chính trị tư sản chỉ bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, các đảng cộng sản không thể bình đẳng với các chính đảng tư sản. V.I. Lênin đã chỉ rõ: “chỉ kẻ ngu ngốc mới nghĩ rằng, giai cấp vô sản phải giành lấy đa số trong các cuộc bầu cử dưới sự áp bức của giai cấp tư sản...rồi mới giành chính quyền”.

Do tính chất và đặc điểm như vậy, các đảng cộng sản [Liên Xô, Trung Quốc, các nước Đông Âu, Cu Ba, Việt Nam...] đều không thể cầm quyền bằng các cuộc bầu cử, mà phải tiến hành các cuộc cách mạng lật đổ chế độ xã hội cũ, lập ra chính quyền mới, xây dựng thể chế chính trị với một nhà nước mới phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Nắm được chính quyền, đảng cầm quyền bằng cách, đưa ra cương lĩnh và đường lối chính trị, chiến lược hành động bảo vệ chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị với trụ cột là nhà nước, huy động lực lượng toàn xã hội thực hiện mục đích của đảng và cũng là của nhân dân.

2] Về mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo

Với bản chất, nguyên tắc và thực tế của quá trình giành chính quyền của các đảng cộng sản nêu trên, sự cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là 2 khái niệm vừa khác nhau, vừa thống nhất với nhau.

Sự khác nhau giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền: Khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, như trình bày ở trên, rộng hơn khái niệm Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mang bản chất lãnh đạo và thực tế đã thực hiện chức năng lãnh đạo của mình. Để đạt được mục đích giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập tự do, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức, xây dựng lực lượng, lãnh đạo giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền tư tưởng cộng sản, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tập hợp quần chúng, làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện Đảng chưa có chính quyền. Mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên cuộc cách mạng Tháng Tám thần thánh, giành chính quyền về tay nhân dân.

Rõ ràng, lãnh đạo là thuộc tính, là sứ mệnh tự thân của Đảng. Nói đến đảng là nói đến chức năng lãnh đạo. Đảng là lực lượng tiên phong, là hạt nhân của phong trào, của hy sinh phấn đấu để đạt tới mục đích của đảng. Là đảng mang lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tư tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng ra đời là từ ý nguyện, lợi ích của nhân dân tiến bộ, đảng phải mang và thể hiện ý chí của nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện cho được mục đích của nhân dân.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ rõ trong tất cả các giai đoạn đấu tranh, xây dựng nhà nước và thực hiện lợi ích của nhân dân Việt Nam từ khi giành được chính quyền, xây dựng chính quyền mới và sử dụng quyền đó để xây dựng chế độ chính trị - xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình phát triển của đảng, nó cũng thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, tài tính của đảng.

Sự thống nhất giữa đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền: Giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền [Hồ Chí Minh]. Đó là bối cảnh thuận lợi mới để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đảng không phải hoạt động bí mật với những điều kiện khó khăn trong việc thực hiện sứ mệnh của đảng trước dân tộc, nhân dân như khi chưa cầm quyền. Đảng cầm quyền nghĩa là Đảng có toàn bộ chính quyền, sử dụng quyền lực nhà nước để lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện mục đích của đảng và của toàn dân; Đảng nắm toàn bộ chính quyền bằng sự tổ chức và sử dụng chính quyền nhà nước để lãnh đạo toàn xã hội xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền thì đảng cầm quyền và đảng lãnh đạo là thống nhất với nhau. Đảng lãnh đạo không chỉ bằng quyền lực chính trị mà bằng cả quyền lực nhà nước. Nhà nước lúc này [trong nghĩa này] trở thành công cụ chính trị của đảng. Đảng lãnh đạo bằng sức mạnh của toàn bộ nhà nước [pháp quyền xã hội chủ nghĩa]. Đảng vừa lãnh đạo bằng sức mạnh và lực lượng của đảng, vừa lãnh đạo bằng sức mạnh và lực lượng của nhà nước. Nội hàm sự lãnh đạo của đảng trong bối cảnh, điều kiện này là rộng hơn, lớn hơn, mạnh mẽ hơn.

Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng là chủ thể lãnh đạo, nhà nước là trụ cột và thực hiện chức năng quản lý xã hội. Đảng cầm quyền và lãnh đạo, có nghĩa là đảng không chỉ sử dụng quyền lực chính trị của đảng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Điều quan trọng hơn là, cùng với sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Đảng sử dụng cả sức mạnh quyền lực nhà nước [chính quyền] để lãnh đạo toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Ở đây không thể đồng nhất quyền lực chính trị của đảng với quyền lực chính quyền [của nhà nước]. Song đảng cầm quyền và lãnh đạo, hay đảng lãnh đạo trong điều kiện cầm quyền, trên cơ sở tôn chỉ mục đích của đảng, đảng tổ chức, xây dựng nhà nước, đề ra nguyên tắc và cơ chế vận hành để hoạt động hiệu lực và hiệu quả, thực hiện đúng mục đích của đảng.

Ở các mô hình cầm quyền phương Tây, khi một đảng đứng lên cầm quyền, đảng đó hóa thân vào nhà nước. Trong mô hình của Việt Nam, đảng không biến thành [hóa thân vào] nhà nước. Mà đảng sử dụng quyền lực nhà nước bằng cách xây dựng nhà nước [pháp quyền xã hội chủ nghĩa] theo đúng bản chất, ý chí, mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện tính đặc thù trong phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng.

2. Quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

1] Đặc điểm có tính nguyên tắc của phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng

Nếu như đặc điểm về bản chất và mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định đặc điểm của quá trình giành quyền lực chính trị, thì đó cũng là cái tạo nên đặc điểm có tính nguyên tắc về phương thức cầm quyền và phương thức lãnh dạo của Đảng.

Phương thức cầm quyền và lãnh đạo có tính nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam là không chấp nhận đa nguyên chính tri, đa đảng đối lập - Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất cầm quyền. Phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu bất di bất dịch của Đảng. Điều đó, về nguyên tắc, chỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền [nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa], đảng không chia sẻ quyền lực cho bất cứ đảng nào khác. Thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thành quả xây dựng và phát triển chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả của sự hy sinh, phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của toàn dân tộc. Đòi hỏi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, để bảo đảm dân chủ trong cầm quyền và lãnh đạo của đảng như một số người nêu lên chỉ là lý luận lừa bịp, muốn thủ tiêu vai trò duy nhất cầm quyền và lãnh đạo chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đã nắm được quyền thống trị, V.I. Lênin chỉ rõ: “Đảng nắm quyền đó với ý thức là chỉ một mình mình nắm”[1].

Khi nói “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vị thế duy nhất nắm quyền lực nhà nước, mà còn nhấn mạnh vị thế lãnh đạo Nhà nước, cả hệ thống chính trị và xã hội của Đảng. Đảng cầm quyền trong ý nghĩa này đã hàm chứa cả đảng lãnh đạo. Điều đó không có nghĩa, quyền lực của Đảng là “siêu quyền lực”, đứng trên quyền lực nhà nước [như có người hiểu]. Đảng và Nhà nước là hai chủ thể quyền lực khác nhau trong một thể chế chính trị - xã hội. Quyền lực của Đảng là quyền lực của giai cấp - một lực lượng trong xã hội; đây là quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân - đây là quyền lực tổ chức, phục vụ, kiến tạo phát triển đất nước. Sự duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải được Nhân dân thừa nhận, lựa chọn và được ghi nhận trong Hiến pháp [tính chính đáng chính trị]. Đảng cầm quyền bằng Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan công quyền, không tự biến mình thành Nhà nước. Nếu quyền lực đảng đồng nhất với quyền lực nhà nước thì xã hội sẽ không còn dân chủ, mà trở thành độc tài.

Phương thức cầm quyền và lãnh đạo đó cũng không phải là phương thức “toàn trị” như có người đã gán cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng duy nhất cầm quyền là để giữ vững mục đích chính trị [CSCN] của Đảng, của Nhân dân. Đảng không toàn ý [độc quyền] nắm quyền và “cai trị”, “cưỡng ép” Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm theo ý chí chủ quan của Đảng. Đảng cầm quyền bằng ý chí và nguyện vọng của Nhân dân [ghi trong Hiến pháp] và lãnh đạo cả hệ thống chính trị thực hiện mục đích của Nhân dân và cũng là của Đảng.

2] Phương thức cầm quyền của Đảng

Là chủ thể duy nhất cầm quyền, Đảng phải chịu trách nhiệm trước toàn dân về vận mệnh của đất nước. Để làm tốt sứ mệnh đó, Đảng dùng quyền lực chính trị của mình, xây dựng hệ thống chính trị: Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; xác định vị trí, vai trò, quyền hạn của mình cũng như của các thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng xây dựng nhà nước đúng bản chất, chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có bộ máy, nguyên tắc và cơ chế vận hành bảo đảm cho việc thực hiện tốt nhất mục đích của Đảng. Đảng xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội sao cho chúng thực sự là đại diện hiệu lực và giám sát, phản biện hiệu quả của nhân dân; đồng thời chúng trở thành tổng lực tham chính và xây dựng đảng, nhà nước.

Đảng bố trí người của đảng [một cách hợp pháp] giữ các vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước; đề ra phương hướng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nắm công tác cán bộ của nhà nước. Trên cơ sở đó, Đảng xây dựng cương lĩnh chính trị, hoạch định đường lối phát triển đất nước theo đúng mục tiêu của Đảng. Thông qua Nhà nước, Đảng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật; lãnh đạo Nhà nước thực hiện đường lối phát triển đất nước của Đảng.

Xây dựng thể chế chính trị và gắn liền với đó là thiết chế chính trị bảo đảm tính khoa học và tính hợp lý [phù hợp với các đặc điểm quốc gia, dân tộc] là yêu cầu và điều kiện tiên quyết để Đảng cầm quyền - sử dụng và thực thi quyền lực hiệu lực và hiệu quả. Phương thức cầm quyền thành công của Đảng còn là xác định đúng các mục tiêu chính trị và lãnh đạo các thành viên của hệ thống chính trị làm tốt các nhiệm vụ của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng,...

3] Phương thức lãnh đạo của Đảng:

- Bằng quyền lực của mình, Đảng chi phối, tác động, chỉ đạo các thành viên trong hệ thống chính trị, quan trọng nhất là Nhà nước và bằng Nhà nước, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng

- Đảng lãnh đạo thông qua cương lĩnh, chiến lược, chỉ thị, các nghị quyết của Đảng đối với các tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội,...

- Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng để cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưa chúng vào thực tiễn.

- Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới địa phương, các bộ, ban, ngành trong hệ thống chính trị.

- Đảng đào tạo đảng viên có đủ phẩm chất, tài năng, có năng lực tuyên truyền, vận động quần chúng, giới thiệu người vào các cơ quan quyền lực dân cử [QH, HĐND các cấp] và giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước.

- Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra của các tổ chức đảng với nội dung chủ yếu là kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghị quyết của đảng.

- Đảng lãnh đạo bằng tính tiên phong, gương mẫu, từ tư tưởng, hành động đến đạo đức, lối sống, nhân cách “công bộc của dân”.

- Lãnh đạo theo tinh thần “dân là gốc”, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh nhân dân đúng tinh thần của dân, do dân, vì dân, hiệu quả, thu phục và cuốn hút quần chúng làm theo đảng.

- Lãnh đạo một cách dân chủ, trí tuệ, khoa học, nghệ thuật, văn minh..., đó là phương thức lãnh đạo nhạy bén, khéo léo, linh hoạt. Phương thức lãnh đạo này càng cần thiết đối với một đảng duy nhất cầm quyền./.

GS, TS. Nguyễn Văn Huyên

Nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.



[1] V.I. Lênin toàn tập, t.43, Nxb. Tiến bộ, M.1978, tr156.

Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản ly, nhân dân làm chủ [phần 1]

Ngày phát hành: 24/07/2019 Lượt xem 1967


I. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ

1. Những nhận thức đã rõ

Đại hội IV của Đảng ta [1976] đã đề cập đến mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Bước sang thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ này được xem là một trong những mối quan hệ lớn, được nhận thức sâu sắc hơn và rõ hơn trong điều kiện mới.

1.1. Trước hết, nhận thức sâu sắc hơn và đây đủ hơn về nhân dân làm chủ trong mối quan hệ với Đảng và Nhà nước. Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong mối quan hệ. Cả ba chủ thể Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải phấn đấu vì mục tiêu nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đều vì mục đích đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính vì thế nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” có bước nhận thức mới, đầy đủ hơn so với trước đây. Chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước là nhân dân. Quyền lực của Đảng cũng như quyền lực nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tồn tại và phát triển từ quyền lực của nhân dân. Với nhận thức đó, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta – Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhân dân Việt nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này” [lời mở đẩu]. Quyền lập hiến thuộc về nhân dân mà không phải như nhận thức trước đây duy nhất thuộc về Quốc hội. Bằng quyền lập hiến của mình, mà Nhân dân giao quyền, Nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Vì thế, đề cao nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một đòi hỏi tất yếu. Nhân dân trước đây chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, thì ngày nay không những thông qua các cơ quan đại diện do mình bầu ra và các cơ quan nhà nước khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ được Đảng ta đề cao và được xem là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý của nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đúng như Cương lĩnh của Đảng đã chỉ rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được khẳng định vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của công cuộc đổi mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mối quan hệ này.

1.2. Nhà nước quản lý trong mối quan hệ với Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phản ánh quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, đầy đủ, sâu sắc và cụ thể hơn về những tư tưởng của Nhà nước kiểu mới được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và xây dựng trong giai đoạn trước đây và những giá trị tiến bộ, phù hợp có thể kế thừa và phát triển về nhà nước pháp quyền của nhân loại ngày nay. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng theo những đặc trưng cơ bản sau đây:

Trước hết, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực Nhà nước về nhân dân.

Hai là, quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xét về bản chất là thống nhất, nhưng về kỹ thuật và tổ chức hoạt động của nó có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý nhà nước và quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật, chủ yếu là các đạo luật là kết quả của sự thể chế đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tính pháp quyền được đề cao trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Bốn là, bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận.

Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan, không những trước đây mà cả trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân đã lựa chọn, một mặt Đảng phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp quyền; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mặt khác đòi hỏi Nhà nước phải có năng lực để thực hiện các chức năng, thẩm quyền được nhân dân và xã hội giao phó.

1.3. Nhận thức rõ hơn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của các chủ thể trong mối quan hệ

- Đảng giữ vị trí, vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ … Thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng thể hiện ở kết quả phát huy vai trò của Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nhiều hay ít.

- Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước chỉ mạnh khi phát huy được đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

- Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước và bằng các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình và bằng các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân được Hiến pháp và luật quy định; có trách nhiệm xây dựng Đảng và Nhà nước ngày càng vững mạnh.

2. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau và nguyên nhân

2.1. Những nhận thức chưa rõ hoặc còn khác nhau

Một là, chưa có sự nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa 2 thuật ngữ Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ [bổ sung, phát triển năm 2011] viết: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Hiến pháp năm 2013 viết Đảng cộng sản Việt Nam là … lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội [Điều 4]. Như vậy, cầm quyền và lãnh đạo giống và khác nhau như thế nào? Khi nào thì gọi Đảng ta là Đảng cầm quyền và khi nào thì gọi là Đảng lãnh đạo. Về vấn đề này một số người cho rằng, ở nước ta Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo là một, chỉ khác nhau cách nói, cách dùng thuật ngữ. Người khác lại cho rằng, Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo có sự khác nhau. Đảng cầm quyền là Đảng phải hóa thân vào Nhà nước để vừa cầm quyền, vừa lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo là để chỉ khi Đảng chưa giành được chính quyền.

Ở các nước dân chủ và pháp quyền tư sản không có thuật ngữ Đảng lãnh đạo mà chỉ có Đảng cầm quyền là Đảng thắng cử sau các cuộc tổng tuyển cử hoặc là liên minh với một số Đảng để có đa số trong Nghị viện để thành lập Chính phủ được gọi là Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã “hóa thân” vào bộ máy nhà nước. Tùy theo hình thức chính thể cộng hòa hay đại nghị mà người đứng đầu Đảng thắng cử sau tổng tuyển cử trở thành Tổng thống hay Thủ tướng, còn những nhân vật chủ chốt của Đảng cầm quyền giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Đảng thắng cử với Nhà nước hòa vào nhau làm một. Nhà nước thực thi đường lối thể hiện trong Cương lĩnh tranh cử của Đảng cầm quyền.

Ở nước ta, chỉ có một Đảng, có nên đồng nhất Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền là một hay không là câu hỏi chưa có câu trả lời rõ ràng. Đảng vẫn có bộ máy tổ chức riêng để thực thi vai trò lãnh đạo. Đã có một thời các Ban của Đảng giảm thiểu hoà nhập vào Nhà nước; nhưng sau đó lại tái thành lập để thực thi vai trò lãnh đạo như Ban Nội chính, Ban Kinh tế. Lãnh đạo nhà nước và xã hội thì Đảng coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo. Còn cầm quyền có phương thức cầm quyền không? và đó là phương thức gì? Vì còn lúng túng trong nhận thức, chưa phân biệt rõ ràng vị trí, vai trò lãnh đạo với vị trí, vai trò cầm quyền nên không có sự nhất quán trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, Đảng vừa lãnh đạo [có tổ chức bộ máy riêng để thực hiện vai trò lãnh đạo], lại vừa cầm quyền [nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng nắm giữ các cương vị chủ chốt của bộ máy nhà nước] nên không tránh khỏi giữa Đảng và Nhà nước có sự trùng lắp trong công việc, dựa dẫm, ỷ lại nhau.

Hai là, chưa có nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng giữa lãnh đạo và quản lý. Ranh giới giữa hai tư cách Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý không phải lúc nào cũng rõ ràng. Vì vậy, trong thực tiễn còn có sự lẫn lộn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Mặc dù Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra các phương thức lãnh đạo của Đảng, khác với phương thức quản lý nhà nước, nhưng trong thực tế không phải lúc nào cũng trả lời được một cách minh bạch. Bởi lãnh đạo hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quản lý; quản lý theo nghĩa rộng bao gồm cả lãnh đạo. Vì thế, tiếp tục phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý trong lãnh đạo của Đảng và trong quản lý của nhà nước là một nhu cầu của thực tiễn hiện nay về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để phòng chống sự bao biện, làm thay hay ỷ lại.

Ba là, nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh và trong Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ và còn có sự khác nhau và lúng túng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong hoạt động lập pháp:

+ Thứ nhất, vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất được hiểu như thế nào? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào? Về những vấn đề này đang có những quan niệm khác nhau. Một số người cho rằng, ở nước ta do đặc thù của một Đảng cầm quyền, nên quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể ở Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, Ban Bí thư. Và vì quan niệm như vậy, nên khi có các ý kiến khác nhau trong tổ chức và hoạt động quyền lực nhà nước phải chờ đợi, dựa dẫm, ỷ lại xin ý kiến của cấp ủy. Ngược lại, cũng có người cho rằng quyền lực nhà nước là tập trung và thống nhất ở Quốc hội. Bới Quốc hội được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là thiết chế có toàn quyền, là cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Đây thực chất là quan điểm theo nguyên tắc tập quyền vốn đã tồn tại trong tổ chức quyền lực nhà nước trong nhiều năm ở nước ta. Cũng có một số người khác lại tuyệt đối hóa sự thống nhất của quyền lực nhà nước, “lo sợ quyền lực nhà nước không thống nhất, sợ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mất đoàn kết”. Quan điểm này nhấn mạnh yếu tố phối hợp giữa các cơ quan, coi nhẹ phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây chính là quan điểm dẫn đến hạ thấp vai trò kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và hạ thấp vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân.

Ngày nay trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, theo chúng tôi, quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước là thống nhất ở nhân dân thể hiện tập trung ở bản Hiến pháp - phương tiện để nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp mà không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình Quốc hội lại trao quyền hành pháp cho Chính phủ, trao quyền tư pháp cho Tòa án nhân dân như quan điểm của các bản Hiến pháp thời kỳ trước đây [trừ Hiến pháp 1946]. Quan điểm đó hoàn toàn phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước [bổ sung và phát triển năm 2011] và với Hiến pháp năm 2013: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện mà còn cả bằng các quyền dân chủ trực tiếp, trong đó trưng cầu dân ý là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất. Có quan niệm như vậy thì nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mới được đảm bảo thực hiện đầy đủ, không hình thức. Quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Không có quyền lực nhà nước nào cao hơn quyền nào, đứng trên quyền nào. Do vậy, quyền lực nhà nước thống nhất ở mục tiêu chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thể hiện tập trung trong Hiến pháp. Vì thế, Đảng và Nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, tôn trọng và đề cao Hiến pháp. Cả Đảng, Nhà nước và nhân dân đều phải có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp – phương tiện chính trị - pháp lý để thống nhất quyền lực nhà nước.

+ Thứ hai, về yếu tố phối hợp trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp…” cũng còn nhận thức không thống nhất. Có người cho rằng phối hợp là phương thức, cách thức, lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, các cơ quan nhà nước làm đúng, làm đủ các nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp và pháp luật quy định là phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Phối hợp không có nghĩa là làm thay công việc của cơ quan khác. Vì thế, phối hợp không phải là yếu tố quyết định trong tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng, phối hợp có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định chất lượng của việc thực hiện các quyền. Ví dụ như, phối hợp giữa hành pháp và lập pháp trong xây dựng luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo quan niệm này. Quy trình thông qua luật chia làm 2 bước: bước đầu tiên, cơ quan soạn thảo [thường là Chính phủ] trình, Quốc hội cho ý kiến; sau bước đầu đó, toàn bộ dự thảo Luật là sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra [các Uỷ ban của Quốc hội] hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua. Thực tiễn này chỉ ra rằng, dự án Luật được Quốc hội thông qua, nếu chất lượng tốt thì không sao, nhưng chất lương không tốt thì trách nhiệm thuộc về ai? Không xác định được rõ ràng [ví dụ như Bộ luật hình sự hay Luật bảo hiểm xã hội]. Theo chúng tôi, phối hợp trong lao động quyền lực nhà nước chỉ đặt ra khi các quyền thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà không thống nhất thì mới đặt ra phối hợp để tìm giải pháp “thỏa hiệp” đúng đắn nhất nhằm giải quyết vấn đề. Tuyệt đối phối hợp không phải là việc làm thay công việc của nhau để dẫn đến dựa dẫm, ỷ lại, không làm hết trách nhiệm của mình và không xác định được trách nhiệm thuộc về ai, nhằm hạ thấp việc phân quyền, phân cấp, ủy quyền trong quản lý nhà nước.

+ Thứ ba, yếu tố “kiểm soát” trong nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất …” cũng còn những nhận thức không thống nhất và đầy đủ. Một số người cho rằng, quyền lực nhà nước, nhất là quyền hành pháp đòi hỏi phải hoạt động năng động, kiến tạo mới góp phần làm giàu đất nước. Đề cao kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ hạn chế sự năng động, sáng tạo trong lao động quyền lực nhà nước. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước như con dao hai lưỡi, một mặt để phòng chống sự tha hóa quyền lực nhà nước và mặt khác sẽ hạn chế sự năng động của quyền lực nhà nước. Ngược lại, một số người lại quá nhấn mạnh vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước và cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là phương thức làm cho Nhà nước mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước chỉ mạnh khi quyền lực nhà nước được kiểm soát một cách chặt chẽ. Theo chúng tôi, kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước.Tính phức tạp đó một mặt, do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm dụng, nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà không làm mất đi tính mềm dẻo, cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất để kiểm soát quyền lực nhà nước là phải thiết kế được một chính quyền nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng, đó là việc thiết kế được về mặt tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất.

2.2. Những nguyên nhân về nhận thức chưa rõ hoặc có ý kiến khác nhau.

- Một là, vấn đề Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền cũng như vấn đề lãnh đạo và quản lý không phải là vấn đề mới mà đã được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều năm nay. Nhưng là vấn đề khó đối với nước ta, khi mà vẫn còn hai bộ máy song song tồn tài. Một bộ máy lãnh đạo và một bộ máy quản lý. Vì thế không tránh khỏi trùng lắp, lẫn lộn giữa lãnh đạo, cầm quyền và quản lý. Tình trạng dựa dẫm, ỷ lại và bao biện làm thay chức năng của nhau đã thường được phê phán trong các văn kiện của Đảng, nhưng khó mà khắc phục được một cách triệt để. Chừng nào mà lãnh đạo, cầm quyền và quản lý còn tách rời nhau thì các vấn đề trên chưa thể giải quyết một cách triệt để.

- Hai là, đối với nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và vấn đề có cần luật về Đảng hay không? những vấn đề mới khác về chất so với các quan niệm vốn đã tồn tại nhiều năm trong tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta, nên không thể nhận thức một cách đầy đủ ngay. Mặt khác, thói quen thần thành hóa và tuyệt đối hóa những tư duy lý luận của chủ nghĩa xã hội hiện thực và sức ỳ của nhận thức truyền thống về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, đã cản trở việc tiếp thu những nhân tố mới.

[Còn tiếp]

GS.TS Trần Ngọc Đường

PGS.TS Phạm Văn Chúc

Mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhân dân

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Thế Hanh[Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh]

Đánh giá tác giả:

07:32 thứ năm ngày 25/07/2019

Tăng kích thước font chữ Giảm kích thước font chữ In bài viết Gửi bài viết

50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền

[HNM] - Trong bản Di chúc lịch sử để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến trọng trách lịch sử của đảng cầm quyền trong quan hệ với nhân dân. Mối quan hệ này tập trung vào vấn đề: Đảng ta là đảng cầm quyền, là người lãnh đạo và là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

Cán bộ, đảng viên phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện. Trong ảnh: Cán bộ bộ phận "một cửa" quận Thanh Xuân hướng dẫn người dân làm thủ tục hành chính.
Ảnh: Viết Thành

Đảng cầm quyền, người lãnh đạo của nhân dân

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Như vậy, từ trong di sản Hồ Chí Minh có thể hiểu quan điểm “Đảng ta là đảng cầm quyền” chính là thông qua việc nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh: Lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đồng thuận xác định từ khi thành lập Đảng. Khái quát hơn, Đảng cầm quyền là tiếp tục vai trò lãnh đạo đất nước để đạt được mục tiêu, lý tưởng cách mạng trong điều kiện đã có chính quyền trong tay.

Trong khi đó, với vị trí Đảng là người lãnh đạo, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng là tổ chức lãnh đạo chứ không phải là cơ quan quản lý; Đảng không có quyền lực nhà nước; Đảng không làm thay công việc quản lý của cơ quan nhà nước; Đảng chỉ thực hiện việc quản lý tổ chức Đảng và đảng viên trong nội bộ theo Điều lệ Đảng.

Đối tượng lãnh đạo của Đảng gồm tất cả các thành tố trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và toàn xã hội. Đảng không chỉ lãnh đạo chính trị, mà còn lãnh đạo cả tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ.

Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân có nghĩa là Đảng phải trở thành lực lượng tiên phong trong dân chúng, vạch hướng, xác định mục tiêu đúng đắn, đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích cơ bản của đông đảo quần chúng nhân dân.

Đồng thời, Đảng phải có uy tín cao do làm tốt sứ mệnh “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đảng lấy uy tín của mình là một Đảng có “đạo đức và văn minh”, để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng.

Lịch sử và thực tế đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mưu cầu lợi ích cho nhân dân, Tổ quốc và dân tộc.

Đảng đã gan góc hy sinh, dũng cảm tổ chức nhân dân phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam. Không lực lượng nào có được những phẩm chất đó và cũng không lực lượng nào đủ uy tín trước nhân dân và dân tộc Việt Nam như thế. Điều này cũng đã được thực tế gần 90 năm qua của lịch sử Việt Nam minh chứng.

Đảng là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân. Ở đó, dân tìm thấy Đảng với tư cách là người tập hợp, lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. Người chỉ rõ: Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền, dân là chủ. Vì vậy, trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Điều này có nghĩa: Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vô điều kiện. Luận điểm này thể hiện vai trò người lãnh đạo và đầy tớ thống nhất trong một chủ thể, đó là đảng cầm quyền. Có giữ vững và làm tốt vai trò người lãnh đạo, thì mới có điều kiện để thực hiện bổn phận người đầy tớ.

Ngược lại, có làm tròn bổn phận người đầy tớ thì vị trí, vai trò người lãnh đạo mới được giữ vững. Để Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, đòi hỏi Đảng phải biết thu phục, thuyết phục được quần chúng. Đó là một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của cả Đảng và nhân dân. Song, trong mối quan hệ đó, Đảng là người có trách nhiệm chính.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: Cán bộ, đảng viên không những là người lãnh đạo quần chúng mà còn phải xác định mình là đầy tớ, là công bộc, là người phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên, mọi cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước.

Đầy tớ của nhân dân cũng có nghĩa là: Nếu dân đói, dân rét, dân dốt, dân ốm thì Đảng và Chính phủ có lỗi. Cán bộ, đảng viên không những phải yêu dân, kính dân mà còn phải biết ơn nhân dân vì cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Đầy tớ của nhân dân, đó là những người “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Tuy nhiên, là người đầy tớ, nhưng không phải là Đảng theo đuôi quần chúng, mà Đảng phải thực sự tiên phong về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của thời đại.

Người yêu cầu, Đảng muốn lãnh đạo giỏi thì phải làm đầy tớ giỏi. Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân, luôn đặt lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc lên trên hết. Đảng và Nhà nước phải tôn trọng quyền làm chủ, lắng nghe ý kiến của nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mọi hoạt động của Đảng cũng như của đảng viên phải chịu sự kiểm soát của nhân dân để làm tròn nhiệm vụ “đầy tớ trung thành của nhân dân”.

... 50 năm đã qua, những lời dặn mang ý nghĩa định hướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc đã và đang soi đường để củng cố hơn nữa mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân trong công cuộc đẩy mạnh hội nhập và đổi mới hiện nay.

Mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhân dân Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu

Tin liên quan 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền

[HNM] - Sau nửa thế kỷ, bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn …

Chia sẻ Facebook Chia sẻ Google Plus Chia sẻ Twitter Chia sẻ Zalo Tới khu vực bình luận In bài viết Gửi bài viết

Từ khóa: Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh 50 năm thực hiện

Quan hệ đảng cầm quyền - nhà nước ở một số nước và những giá trị tham chiếu đối với Việt Nam

Ngày đăng: 15/06/2017 03:20

Mặc định Cỡ chữ

Trên thế giới hiện nay, hầu hết các đảng chính trị xác lập địa vị chính danh là đảng cầm quyền là thông qua bầu cử cơ quan nhà nước.Đảng chính trị giành quyền lực và trở thành đảng cầm quyền thông qua con đường tuyển cử và đấu tranh ở quốc hội. Bầu cử là con đường cơ bản và phổ biến để một đảng chính trị trở thành đảng cầm quyền. Ở địa vị cầm quyền, đảng gây ảnh hưởng đối với các quyết định của nhà nước, của chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp, nhóm xã hội mà nó đại diện thông qua các nghị sĩ là đảng viên của đảng

1. Mối quan hệ đảng cầm quyền và nhà nước ở một số nước

Để giành thắng lợi trong bầu cử, đảng chính trị cần phải có tổ chức, hệ tư tưởng đủ mạnh và tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối của đảng mình cho đảng viên và công chúng để thu hút, tập hợp lực lượng về phía mình và nhận được sự ủng hộ cũng như bảo vệ của các lực lượng xã hội; bảo đảm số ứng viên là đảng viên của đảng thắng cử tham gia vào cơ quan nhà nước và có khả năng thực hiện lợi ích của đảng; tuyển chọn và bố trí nhân sự vào bộ máy cơ quan quyền lực nhà nước. Đảng nắm chính quyền thông qua đội ngũ đảng viên là công chức trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của đảng đúng đắn, phù hợp, phản ảnh và thỏa mãn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và cam kết thực hiện nếu thắng cử và lập được chính phủ.

Chế độ bầu cử đại biểu theo tỷ lệ phiếu [số phiếu trong quốc hội được phân bổ cho các chính đảng theo tỷ lệ phiếu mà đảng đó giành được] là chế độ bầu cử công bằng nhất. Tuy nhiên, ngoài mục đích phản ảnh ý chí của nhân dân trong việc lựa chọn đại biểu, còn một mục đích nữa là thông qua bầu cử, nhân dân sẽ nâng cao ý thức chính trị, cảm thấy gần gũi với chính trị và dễ dàng chấp nhận hơn khi có sự thay đổi chính quyền.

Ở các nước có từ hai đảng đồng thời hoạt động trở lên, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật quyền lực gay gắt giữa các đảng chính trị. Sau cuộc tổng tuyển cử, đảng cầm quyền - là đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện và ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc bầu cử - có quyền đứng ra lập chính phủ và các thành viên hoạt động tích cực trong chiến dịch vận động bầu cử của đảng sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ trong chính quyền. Mọi hoạt động của chính phủ phải thể hiện ý chí của đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.

Sau bầu cử, trở thành đảng cầm quyền, đảng phải thể chế hóa quyền lực của mình bằng việc xác lập bộ máy nhà nước. Đảng cầm quyền xác lập bộ máy nhà nước, vị trí cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước cấp Trung ương và địa phương, các vị trí chủ chốt của các bộ phận cấu thành hệ thống quyền lực nhà nước. Đảng cầm quyền gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống chính trị và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước có sự phân chia quyền lực nhà nước bởi các đảng.

Ở Mỹ, đảng chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hạ viện bao giờ cũng là đảng viên của đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện, và là người có nhiều quyền lực nhất trong Quốc hội. Với tư cách là người lãnh đạo đảng, chủ tịch Hạ viện là một trong những người phát ngôn chủ chốt về các chính sách của đảng, thực hiện sự kiểm soát của Đảng đối với mọi hoạt động của Hạ viện, đồng thời gây áp lực đối với việc phân công các thành viên vào các ủy ban. Ngoài ra, còn có các tổ chức đảng ở Thượng viện và Hạ viện rất có quyền thế can thiệp sâu vào mọi hoạt động lập pháp của Quốc hội, Đảng Cộng hòa gọi là Hội nghị, còn Đảng Dân chủ gọi là phiên nhóm, không những đề cử đảng viên vào các chức vụ quan trọng mà còn lựa chọn Chủ tịch Ủy ban chính sách và điều hành, người này phụ trách chiến lược của Đảng ở diễn đàn Quốc hội và có quyền quyết định nghị sĩ - đảng viên nào sẽ được nói cũng như nói khi nào.

Bên cạnh đó, sự chi phối của Tổng thống đối với Quốc hội cũng rất đáng kể. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, chịu trách nhiệm về hành động của mình trước cử tri toàn quốc theo quy định, nhưng do là một đảng viên của đảng cầm quyền và cũng là để thực hiện quyền lợi của đảng, giữ uy tín cho đảng, đồng thời cũng là đặt nền móng cho việc tái cử trong nhiệm kỳ sau nên mọi hoạt động của Tổng thống thường đi theo đường lối chính sách của đảng đã hứa với cử tri khi vận động bầu cử.

Tổng thống chỉ định tất cả các quan chức cao cấp liên bang và có toàn quyền trong việc bổ nhiệm các thành viên nội các - một trong những cơ quan giúp việc quan trọng nhất của Tổng thống, và các thành viên này là cộng sự đắc lực, có ảnh hưởng lớn trong việc điều hành đất nước của Tổng thống. Để nhận được sự ủng hộ lâu dài của đảng, Tổng thống thường bổ nhiệm các đảng viên cùng đảng đã có sự ủng hộ tích cực trong chiến dịch bầu cử vào các chức vụ quan trọng. Bên cạnh đó, Tổng thống cũng bổ nhiệm một vài chức vụ cho đảng viên đối lập nhằm củng cố thêm mối quan hệ trong bộ máy nhà nước.

Tổng thống thực hiện quyền lực của mình với sự trợ giúp của trên 100 cơ quan khác nhau, trong đó quan trọng nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Cơ quan quản lý ngân sách, Hội đồng đối nội, Cục Tình báo Trung ương, Cục điều tra liên bang, Hội đồng cố vấn kinh tế, nội các…

Hiến pháp Mỹ quy định: Tổng thống có quyền đề cử và với ý kiến cùng sự thoả thuận của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các đại sứ, công sứ và các lãnh sự, các thẩm phán Tòa án tối cao liên bang và tất cả công chức liên bang khác… Theo đó, những người có chức vụ cần được bổ nhiệm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp [do nhân dân chọn lựa], các thẩm phán liên bang được nhân dân chọn lựa gián tiếp qua những người đại diện cho họ. Quốc hội cũng quy định thủ tục như vậy đối với việc lựa chọn thẩm phán cho các tòa án liên bang khác. Như vậy, việc Tổng thống và Thượng nghị viện cùng quyết định chọn ai là thẩm phán liên bang không phụ thuộc vào cấp Tòa án tối cao hay cấp dưới, số lượng thẩm phán của các tòa án liên bang do Quốc hội quy định. Trong trường hợp có ghế khuyết trong bất kỳ tòa án liên bang nào trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống có thể đề cử và bổ nhiệm thẩm phán vào vị trí khuyết đó. Như vậy cũng không có nghĩa là Tổng thống và Thượng nghị viện có quyền chủ động bổ nhiệm những người mà công chúng hay các nhóm đảng cho là không đủ khả năng, không phù hợp. Điều đó rất dễ làm giảm sút uy tín chính trị và có thể sẽ khó được tái cử. Chính vì vậy khi bổ nhiệm, Tổng thống và Thượng nghị viện phải làm thỏa mãn 2 yêu cầu: [1] phù hợp với quan điểm chính trị của họ, [2] không làm cho công chúng và các tổ chức liên quan khác mất lòng. Thường là Tổng thống bổ nhiệm người cùng đảng, cụ thể trong gần 200 năm lịch sử của Tòa án tối cao, có chưa đến 1/7 các thẩm phán là thuộc đảng đối lập với Tổng thống.

Tại Anh, theo quy định của pháp luật, Nữ hoàng được quyền bổ nhiệm Thủ tướng - người đứng đầu bộ máy hành pháp - với điều kiện người đó là thủ lĩnh của đảng cầm quyền [tức đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện], các đảng viên cũng phải biểu quyết theo ý chí của đảng mình. Tuy Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện [vì được thành lập trên cơ sở Nghị viện], nhưng thực tế đảng cầm quyền có quyền đứng ra thành lập Chính phủ và thao túng toàn bộ tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hoạt động của Hạ nghị viện. Mọi hoạt động của Chính phủ đều thể hiện ý chí của đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.

Cung điện Westminster ở London là nơi hội họp của các nghị sỹ Anh.

Ở Pháp, 9 thành viên của Tòa án tối cao được Tổng thống và Chủ tịch hai viện bổ nhiệm. Ở Italia, trong 15 thành viên thì có 1/3 do người đứng đầu Nhà nước lựa chọn, 1/3 do 2 viện bổ nhiệm và 1/3 do các tòa cấp dưới chỉ định. Ở Đức, Nghị viện liên bang chỉ định 8/16 thành viên, số còn lại do Hội đồng liên bang chỉ định. Ở Nhật Bản, Tòa án tối cao gồm 1 Chánh án và 14 thẩm phán, Chánh án do Nhật Hoàng bổ nhiệm trên cơ sở nội các chỉ định, 14 thẩm phán do nội các bổ nhiệm.

Ở những nước có hệ thống lưỡng đảng như Anh, Mỹ,… thì một trong hai đảng thay nhau cầm quyền. Còn ở những nước đa đảng như Pháp, Ý, Đức…, nếu không có đảng nào chiếm đa số ghế trong Quốc hội thì buộc phải thành lập Chính phủ liên minh các đảng. Ngoài ra, một số nước có hệ thống một đảng nắm quyền tuyệt đối.

Ở Cộng hòa Xinhgapo, Đảng cầm quyền PAP lãnh đạo Chính phủ và chi phối Quốc hội. Tuy nhiên, giữa chúng có sự phân chia quyền lực: các chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng phải được Quốc hội thông qua mới được thi hành, và Chính phủ là cơ quan triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Quốc hội Xinhgapo là cơ quan lập pháp gồm 51 nghị sĩ do dân bầu. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội cử, và chỉ định Thủ tướng [người đứng đầu Đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội]. Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống sẽ chỉ định các thành viên của nội các [gồm 14 bộ trưởng và các quan chức hành chính cao cấp]. Một Hội đồng cố vấn được lập ra làm tham mưu cho Tổng thống, các ý kiến của Hội đồng trong các cuộc họp cấp cao có thể được Tổng thống tham khảo, thí dụ như việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt cho nền hành chính quốc gia.

Hiến pháp Nhật Bản quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp duy nhất của đất nước. Điều đó cho thấy, Quốc hội được công nhận về tầm quan trọng của mình cao hơn các cơ quan khác như Nội các và Tòa án. Vì vậy, nền chính trị nhà nước hoạt động theo nguyên tắc Quốc hội là trung tâm. Nhật Bản cơ cấu Quốc hội theo chế độ 2 viện được tổ chức công phu, dù tổ chức 2 viện khác nhau nhưng phải phù hợp với mục đích của Quốc hội. Ngoài quyền lập pháp, hai viện còn có quyền giám sát tài chính quốc gia và điều tra các hoạt động chính trị của đất nước. Do áp dụng chế độ nội các Nghị viện nên Thủ tướng Nhật Bản được chỉ định trong số các nghị sĩ bằng quyết nghị của Quốc hội. Thực tế, nghị sĩ là Chủ tịch Đảng chiếm đa số ghế tại Hạ nghị viện làm Thủ tướng. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các bộ trưởng và hơn nửa số bộ trưởng phải được chọn trong số các nghị sĩ Quốc hội [thực tế thì đa số ghế bộ trưởng trong Nội các thuộc đảng cầm quyền].

Nội các gồm Thủ tướng và khoảng 20 bộ trưởng, cơ quan giúp việc cho Nội các là Văn phòng Nội các và các cơ quan của Cục pháp chế Nội các. Ngoài công việc hành chính nói chung, Nội các còn thực thi và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các công việc hành chính như chấp hành pháp luật, tổng hợp các công việc của quốc gia, xử lý các quan hệ ngoại giao, ký kết các hiệp ước, ban hành các sắc lệnh thi hành Hiến pháp, pháp luật và có đặc quyền về ân xá như đại xá, đặc xá. Các bộ trưởng được phân công phụ trách các công việc hành chính như Phủ Thủ tướng, các bộ và các vị trí quan trọng như: Đổng lý văn phòng Nội các [tức Bộ trưởng Văn phòng chính phủ], Chủ tịch Ủy ban an ninh quốc gia, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chung, Cục trưởng Cục phòng vệ …

Đảng cầm quyền đưa tư tưởng của đảng thâm nhập vào chính sách, quyết sách của nhà nước.

Một đảng chính trị sau khi thắng cử trở thành đảng cầm quyền, thông qua các nghị sĩ là đảng viên của đảng, nắm quyền kiểm soát các hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt động của nhà nước luôn tuân thủ theo sự lãnh đạo của đảng cầm quyền, cụ thể hóa các mục tiêu, cương lĩnh cũng như quyền lợi của đảng vào chính sách của quốc gia.

Con đường cơ bản để đảng cầm quyền củng cố, duy trì vị trí cầm quyền của mình là người đại diện cho đảng cầm quyền đang giữ vai trò lãnh đạo trong bộ máy cơ quan nhà nước phải thực hiện các chương trình hành động cũng như làm tròn trách nhiệm đối với các cam kết của đảng mình trong chiến dịch tranh cử đối với nhân dân.

Nguồn lực để đảng cầm quyền duy trì hoạt động của mình là công tác đào tạo sử dụng cán bộ. Công tác này phải được làm một cách thường xuyên, liên tục, có kế hoạch, hiệu quả và chất lượng cao.

2. Những giá trị tham chiếu về cơ chế đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý

Một là, kiểm soát quyền lực nhà nước.

Để hạn chế sự tha hóa quyền lực, cần xác lập và hoàn thiện thể chế tự kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài các chủ thể quyền lực. Quyền lực phải được kiểm soát bằng quyền lực, mỗi nhánh quyền lực, lập pháp, hành pháp, tư pháp phải hoàn thiện thanh tra và các thể chế để tự kiểm soát. Đồng thời, phải thiết lập thể chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau. Bên cạnh đó, thiết lập và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài nhà nước. Phát huy loại hình kiểm soát quyền lực - giám sát và phản biện xã hội. Phát huy vai trò của truyền thông đại chúng trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Hơn nữa, phải hoàn thiện thể chế tự kiểm soát bên trong tổ chức đảng, thông qua công tác tổ chức, cán bộ, nhất là công tác bầu cử. Công tác cán bộ phải theo hướng cán bộ lãnh đạo chủ chốt qua tranh cử, trong môi trường thật sự minh bạch, tôn trọng ứng cử tự do và đề cử, chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và nghiêm túc, khách quan, vừa mở rộng dân chủ vừa tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Đó cũng là cách để nhân dân và đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ. Cần đổi mới bầu cử theo hướng dân chủ, từng bước khắc phục những cách làm mang tính hình thức không còn phù hợp để nâng cao tính tích cực chính trị của cử tri. Cử tri có quyền bầu cử đại biểu và có quyền bãi miễn đại biểu.

Hai là, nhất thể hóa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước có chức năng tương đồng.

Chủ trương sáp nhập cơ quan đảng và cơ quan nhà nước có chức năng tương đồng sẽ khắc phục tình trạng: tổ chức, bộ máy nhiều chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vu, nên có tình trạng tập trung quá mức ở Trung ương, lại có sự phân tán cục bộ của các cấp, các ngành, phân tán quyền lực ở nhiều hệ thống, làm cho tổ chức bộ máy vận hành kém hiệu lực. Kỷ luật, kỷ cương không nghiêm là căn nguyên của quan liêu, tham nhũng chưa ngăn chặn và đẩy lùi hiệu quả. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, gây cản trở lẫn nhau.

Đại hội XII của Đảng chủ trương: “Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng và nhiệm vụ”[1]. Chủ trương hợp nhất các cơ quan đảng và cơ quan nhà nước có sự tương đồng về chức năng, nhiệm vụ [ban tổ chức cấp ủy - nội vụ; cơ quan kiểm tra cấp ủy - thanh tra; tuyên giáo - thông tin, truyền thông…] nhằm sắp xếp tổ chức bộ máy của cả hai hệ thống cơ quan. Tuy nhiên, việc hợp nhất các cơ quan đảng và cơ quan nhà nước có chức năng tương đồng đặt ra nhiều vấn đề mới và khó, cụ thể như; sắp xếp và tinh giản biên chế, bố trí người đứng đầu, lựa chọn phương thức hoạt động phù hợp… Cùng với việc hợp nhất đòi hỏi các cấp ủy phải xây dựng đề án sắp xếp nhân sự cho tổ chức bộ máy đó và có chế độ, chính sách phù hợp với nhân sự dôi dư. Lựa chọn, bố trí nhân sự đứng đầu cơ quan sau hợp nhất theo phương thức nào là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng. Phương thức hoạt động của cơ quan đảng và cơ quan hành chính có sự khác biệt lớn, một bên hoạt động trên cơ sở dân chủ, đồng thuận, quyết định theo đa số, một bên hoạt động trong trật tự thứ bậc chặt chẽ, mệnh lệnh hành chính, quan hệ phục tùng…

Ba là, thực hiện nhất thể hóa, tăng thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu.

Trong những năm sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Chính phủ với một cơ chế đơn giản nhưng hiệu lực lại rất cao vì Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng đồng thời là Chủ tịch nước và Chủ tịch Chính phủ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, cần thiết thực hiện nhất thể hóa, người đứng đầu Đảng đồng thời là nguyên thủ quốc gia, đứng đầu cơ quan hành pháp cao nhất, mối quan hệ giữa các chức danh cấp cao nằm ở trong tay một người. Ở địa phương, thực hiện bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp. Quyền lực tập trung, công việc giải quyết nhanh gọn, lại không tạo ra sự “xung đột” giữa các chủ thể quyền lực. Thực hiện nhất thể hóa bí thư cấp ủy với chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp có thuận lợi sau: Giảm các cuộc họp giữa cấp ủy và thường trực ủy ban. Bởi lẽ, để lãnh đạo, chỉ đạo thì phải tổ chức các cuộc họp để quán triệt sự chỉ đạo của cấp ủy đối với chính quyền. Ở nhiều địa phương, việc tổ chức các cuộc họp quán triệt như vậy tốn nhiều thời gian và nguồn lực. Xác định rõ ràng trách nhiệm của các thiết chế trong hệ thống chính trị bởi trong nhà nước pháp quyền, tất cả các thiết chế tham gia thực hiện quyền lực của nhân dân phải được điều chỉnh bởi pháp luật và theo pháp luật. Với cơ chế hiện nay, Đảng lãnh đạo nhưng trong các văn bản pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định trách nhiệm pháp lý về sự lãnh đạo của tổ chức đảng mà mới chỉ dừng lại ở trách nhiệm chính trị. Vì vậy, khi cần truy cứu trách nhiệm thì xảy ra tình trạng đùn đẩy hoặc nhận khuyết điểm chung chung. Như vậy, khi chưa luật hóa về sự lãnh đạo của Đảng thì thông qua nhất thể hóa để ràng buộc và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền là lựa chọn thích hợp. Thực hiện nhất thể hóa sẽ giúp tinh gọn bộ máy, phù hợp với xu thế, yêu cầu cải cách bộ máy hành chính nhà nước và cải cách hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Chủ trương nhất thể hóa các chức danh đòi hỏi cán bộ phải rèn luyện, phấn đấu, nâng cao trình độ, năng lực, khả năng tư duy toàn diện, tính quyết đoán, tự chịu trách nhiệm trước tập thể cũng qua đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

PGS, TS. Đinh Ngọc Giang, TS. Lê Thị Minh Hà - Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

--------------------------------

[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.203.

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước

Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề