Nhân vật tỏ lòng trong bài thơ là ai

Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Tỏ lòng [Thuật hoài] của Phạm Ngũ Lão

Bài văn mẫu lớp 10

1 1.823

Tải về Bài viết đã được lưu

Văn mẫu lớp 10: Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Tỏ lòng [Thuật hoài] của Phạm Ngũ Lão gồm các dạng văn mẫu được VnDoc sưu tầm và giới thiệu củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Tỏ lòng [Thuật hoài] của Phạm Ngũ Lão

Thời đại nhà Trần là một trong những thời đại oai hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công ba lần đánh thắng quân Mông - Nguyên xâm lược. Nhắc đến chiến công ấy, ta không thể không nhớ tới Phạm Ngũ Lão - một danh tướng có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nước nhà. Ngoài cương vị một võ tướng, ông còn thích đọc sách, ngâm thơ. Bài thơ Thuật hoài vừa khắc họa sinh động hình tượng người tráng sĩ thời Trần hiên ngang, bất khuất; vừa thể hiện khát vọng cao đẹp của chính tác giả.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một không gian bao la rộng lớn của sông núi. Cũng trong không gian mênh mông ấy, hình tượng người tráng sĩ thời Trần với tư thế hiên ngang, anh dũng sừng sững hiện lên. Người tráng sĩ ấy cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Tư thế ấy, tầm vóc ấy như sánh ngang cùng giang sơn hùng vĩ. Từ “hoành sóc” vừa khắc họa tư thế hiên ngang, bất khuất vừa tạo nên âm hưởng hào hùng. Người tráng sĩ canh giữ giang sơn không chỉ trong chốc lát. Thời gian dài đằng đẵng được tác giả nhắc đến qua ba từ “kháp kỉ thu” rất nhẹ nhàng. Thời gian mấy thu dung hòa với không gian và con người tạo nên bức tranh có chiều sâu trong đó nổi bật là hình tượng người tráng sĩ hiên ngang, anh dũng. Cầu thơ thể hiện lòng tự hào của tác giả đối với vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần.

Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ khiến người đọc cảm nhận một cách rõ nét khí thế của tam quân. Khí thế ấy được đặc tả qua cụm từ “khí thôn ngưu” - khí thế nuốt trâu đầy dũng mãnh. Đội quân ấy chính là tập hợp những tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc. “Tam quân” với hào khí ngút trời, khí thế dũng mãnh, ý chí kiên cường có thể đánh tan mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc giang sơn. Hai câu thơ đầu hiện lên với khí thế hào hùng và vẻ đẹp của con người thời Trần. Nó cũng thể hiện lòng tự hào của Phạm Ngũ Lão về con người thời đại ông.

Nếu như hai câu thơ đầu là hình tượng người tráng sĩ thời Trần oai phong, dũng mãnh thì đến câu thơ thứ ba, nhịp thơ như chậm lại, hình tượng nhà thơ hiện lên với một vẻ trầm tư suy nghĩ:

Nam nhi vị liễu công danh trái.

Theo quan niệm của Nho giáo, người con trai sinh ra trong cuộc đời này là đã mang một món nợ: nợ nam nhi, nợ công danh. Nợ công danh còn gọi là nợ tang bồng - món nợ mà người đàn ông phải trả bằng sự cố gắng phấn đấu, rèn luyện trong suốt cả cuộc đời để làm nên nghiệp lớn. Phạm Ngũ Lão một danh tướng thời Trần cũng không khỏi trầm tư suy nghĩ về món nợ của kẻ làm trai. Những tưởng vị danh tướng ấy đã có thể yên lòng vì mình đã trả hết món nợ công danh bằng những cống hiến to lớn cho sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ đất nước nhưng không phải vậy. Đọc đến câu thơ cuối, ta mới thấy hết khát vọng và nhân cách cao đẹp của ông:

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Vũ hầu là Gia Cát Lượng, người có tài dùng binh và rất trung thành, tận tụy với sự nghiệp giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Phạm Ngũ Lão tự cảm thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu. Mặc dù Phạm Ngũ Lão là người có công lớn trong sự nghiệp bảo vệ đất nước song ông chưa bao giờ hài lòng với những gì mình đã làm được. Ông vẫn cảm thấy mắc nợ với đời, hổ thẹn vì mình không tài giỏi được như Vũ hầu để đóng góp cho nước cho dân. Đó là cái thẹn cao đẹp, thể hiện tấm lòng luôn mong mỏi được công hiến. Tâm sự ấy của Phạm Ngũ Lão thật đáng quý biết bao! Hình tượng nhân vật qua hai câu thơ cuối không chỉ thể hiện khát vọng cao đẹp của Phạm Ngũ Lão mà còn bộc lộ vẻ đẹp của con người thời Trần nói chung.

Hình tượng nhân vật trong bài thơ vừa toát lên sự oai hùng, kiên cường, bất khuất lại vừa thể hiện nỗi trầm tư và khát vọng được cống hiến, đóng góp cho đất nước. Đó là vẻ đẹp của con người thời Trần - một vẻ đẹp khiến người đọc chúng ta tự hào và cảm phục. Đó không chỉ là lí tưởng sống của con người thời Trần mà còn là mục đích sống của con người mọi thời đại. Sống vì cuộc đời, vì sự nghiệp chung của đất nước chính là lí tưởng sống cao đẹp, tích cực của tất cả mọi người dù ở thời đại nào. Ngày nay, khi chúng ta được sống trong hòa bình thì nhiệm vụ của mỗi người là phải ra sức học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Thế hệ trẻ hôm nay hãy cố gắng noi theo lí tưởng sống của con người thời Trần, phấn đấu hết mình để đóng góp cho đất nước. Hãy biến hào khí Đông A của nhà Trần năm xưa thành tinh thần hăng say học tập, lao động để phục vụ nước nhà.

Bài thơ Tỏ lòng chỉ gồm bốn câu nhưng đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp hiên ngang, anh dũng cũng như lý tưởng sống cao đẹp của con người thời Trần. Đọc bài thơ, hào khí của một thời kì oai hùng trong lịch sử dân tộc như đang dâng lên trong lòng người đọc. Hào khí, lí tưởng sống của những con người năm xưa sẽ trở thành động lực để thế hệ trẻ hôm nay ra sức phấn đấu, học tập, rèn luyện, đóng góp công sức của mình xây dựng, phục vụ đất nước.

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Tỏ lòng [Thuật hoài] của Phạm Ngũ Lão cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 10, đề thi học kì 2 lớp 10 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

  • Soạn văn 10 bài: Tỏ lòng
  • Soạn bài lớp 10: Tỏ lòng
  • Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão

1. Tác giả

Phạm Ngũ Lão [1255 – 1320] quê làng Phù ủng, huyện Đường Hào [nay thuộc huyện Ân Thi] tỉnh Hưng Yên. Ông là một người có tài, được Trần Hưng Đạo trọng dụng mời vào làm môn khách, sau thành con rể. Ông là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Là người văn võ toàn tài nên ông được triều đình nhà Trần trọng dụng và biệt đãi. Tác phẩm của ông hiện còn hai bài là Thuật hoài và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.

2. Tác phẩm

Hoà cùng không khí thơ ca hào sảng của thời Trần, bài thơ của Phạm Ngũ Lão thể hiện chí khí của người quân tử. Thuật hoài là khí phách của người quân tử theo lí tưởng của Nho gia đồng thời thể hiện một trong những yếu tố làm nên vẻ đẹp của hào khí Đông A. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một con người nhập thế đầy trách nhiệm.

3. Cách đọc

Đây là bài thơ thể hiện cái chí, do vậy cần đọc chậm, dõng dạc, khẳng khái.

Soạn bài: Soạn bài Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lao // Phân tích bài thơ Thuật Hoài

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

Thơ trung đại thiên về nói chí. Thuật hoài là một bài thơ như vậy. Âm hưởng sục sôi tinh thần quyết chiến, quyết thắng và khát vọng dựng xây đất nước làm nên vẻ đẹp của bài thơ. Thời đại anh hùng khiến mọi thứ đều trở nên kì vĩ, kể cả tầm vóc của con người :

Múa giáo non sông trải mấy thu

Câu thơ đẹp, đúc tác nên cái tư thế của kẻ anh hùng. Hai chữ “múa giáo” trong bản dịch chưa thể hiện được hết cái chiều kích của hai từ “hoành sóc” trong nguyên tác. “Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Nhà thơ đã chọn được cái phông nền thật hợp để tôn lên vẻ đẹp của con người. Con người kì vĩ, hành động lớn lao nên không gian cũng phải được mở rộng theo chiều sông núi, phải được đẩy lên cao thăm thẳm tới tận sao Ngưu. Thời gian cũng không thể kể ngày, kể tháng. Thời gian là phiếm chỉ “kháp kỉ thu” [trải mấy thu].

Con người đầy tráng khí nhưng không phải là đơn nhất. Đó chỉ là một trong muôn triệu anh hùng của một thời đại anh hùng :

READ:  Soạn bài Văn thuyết minh lớp 10 [Trả bài viết số 5]

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

Hình ảnh “ba quân” vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Nó là hình ảnh đội quân anh hùng nhà Trần nhưng đồng thời cũng tượng trưng cho tinh thần dân tộc.

Câu thơ chữ Hán dẫn đến hai cách hiểu. “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” có thể hiểu là “ba quân mạnh như hổ báo nuốt trôi trâu” hoặc hiểu là “ba quân mạnh như hổ báo khí thế át cả sao Ngưu”. Chọn hình ảnh so sánh đầy táo bạo, câu thơ đã gợi ra được sức mạnh của đội quân mang cái hào khí của thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau chùng xuống, nhịp thơ chậm, lắng sâu, tập trung thể hiện cái chí của người quân tử :

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu

Công danh đối với kẻ nam nhi là cái nợ ở đời. Phải lập nên sự nghiệp lớn để lưu dấu công danh cho con cháu ngàn đời, đó là lí tưởng sống của người quân tử. Chưa trả được nợ công danh nghĩa là chưa hoàn thành nghĩa vụ với đời. Tư tưởng này chính là động lực mạnh mẽ cổ vũ thanh niên thời trung đại từ bỏ lối sống tầm thường, sẵn sàng xả thân vì những nhiệm vụ lớn lao của Tổ quốc. Trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đời Trần, chí làm trai như thế là tư tưởng tích cực có ý nghĩa lớn lao.

Song với người anh hùng, bên cạnh cái chí còn phải rèn tâm. Cái tâm của Phạm Ngũ Lão thể hiện qua nỗi thẹn. Ông thẹn vì chưa có được trí tuệ uyên thâm và tài mưu lược như Gia Cát – Khổng Minh thời Tam quốc. Thẹn vì chưa đưa đất nước ra khỏi dầu sôi lửa bỏng, chưa đưa giang sơn đến bến bờ của sự thái bình – nỗi thẹn của người “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” [Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc].

Thuật hoài là bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn nhưng mang tầm vóc sử thi. Bài thơ vừa là nỗi lòng, là những cảm xúc riêng của Phạm Ngũ Lão vừa mang cái khí chung của hào khí Đông A.

III. LIÊN HỆ

1. Bài thơ nêu cao lí tưởng trai thời loạn. Lí tưởng trai thời loạn là “cắp ngang ngọn giáo”, luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu dẹp giặc cứu nước. “Nợ công danh” lúc này là trách nhiệm của người thanh niên đối với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa anh hùng nêu lên ở đây là chủ nghĩa anh hùng thời phong kiến, với những mặt hạn chế của nó, nhằm tự đề cao cá nhân, hoặc ban ơn cho quần chúng, v.v… Người thanh niên thời đại đã ý thức được trách nhiệm cao cả của mình đối với Tổ quốc. Từ bài thơ còn nổi lên hình ảnh đội quân cứu nước, ngùn ngụt khí thế của hổ báo nuốt trâu. Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là bài thơ yêu nước hùng tráng, phản ánh khí thế vươn lên hào hùng của dân tộc, kế tục phong cách thơ hùng tráng của Nam quốc sơn hà… thời Lí.

READ:  Soạn bài Phú sông Bạch Đằng

[Nguyễn Sĩ Cẩn, Văn học Việt Nam thế kỉ X đến giữa thế kỉ XVII, NXB Giáo dục, 1989]

2. Cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Ngọn giáo ấy phải đo bằng chiều ngang của non sông. Thế thì con người cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc ấy tất phải được đo bằng kích thước của trời đất. Con người có tầm vóc vũ trụ như vậy đã đồng nhất với non sông. Tầm vóc hoành tráng, tư thế vững chắc ấy của dân tộc ta có cơ sở từ tinh thần làm chủ đất nước rất sâu sắc, từ ý chí bảo vệ đất nước rất kiên cường. Với tinh thần ấy, nhân dân ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, v.v… và nhất là Bạch Đằng.

[Đinh Gia Khánh, Văn học Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, NXB Giáo dục, 1989]

Video liên quan

Chủ Đề