Những bài học kinh nghiệm của Đảng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Những bài học lịch sử sau 20 năm đổi mới đất nước

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, trong phần nhìn lại 20 năm đổi mới đã nêu lên một số bài học lớn. Chúng tôi xin giới thiệu đoạn trích.

Cùng với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, chúng ta nhìn lại 20 năm đổi mới.

Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ, cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...

Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một số bài học lớn sau đây:

Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.

Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.

Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.

Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [năm 1991], đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.

Theo Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 65, tr. 178-180.

Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc chính là chân lý được rút ra từ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, là cội nguồn tạo nên sức mạnh để dân tộc ta liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa và trong xây dựng đất nước.

Chính vì vậy, khi tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn – vị tướng lỗi lạc của nhà Trần đã nêu nguyên nhân lớn nhất tạo nên thắng lợi của dân tộc ta đó là: “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức” và trước khi mất ông đã căn dặn vua Trần: "Phải khoan thư sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã nhiều lần nhắc đến dân và vai trò sức mạnh của dân. Ông cho rằng: “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” “lật thuyền mới biết dân như nước”, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng rất đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Theo những nhà lý luận kinh điển, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là đầu tàu của mọi cuộc cách mạng. Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen [năm 1943], C.Mác đã viết: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân”[1]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen trong điều kiện mới, V.I.Lênin cũng khẳng định: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được”[2].

Kế thừa, phát huy giá trị truyền thống trọng dân của dân tộc, đồng thời quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân” [3] hoặc là : "Nước lấy dân làm gốc...

Gốc có vững cây mới bền,

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"[4]

Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, kể cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng việc tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng, tham gia cách mạng và đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết của toàn dân làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam mà điển hình là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đồng Nam Á, thắng lợi của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, thắng lợi của công cuộc đổi mới.

Trong quá trình lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, việc thực hiện “lấy dân làm gốc” luôn được Đảng xác định là phương châm trong hành động của Đảng và một trong những bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI [1986] – Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khi phân tích đánh giá về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội V và chặng đường hơn 10 năm Đảng lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc [1975-1986], Đại hội đã rút ra các bài học kinh nghiệm thì trong đó bài học thứ nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[5]; “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”[6]. Bởi vì, chính thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong những năm trước đổi mới đã cho thấy, khi nào chủ trương, chính sách nào phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân, bảo đảm các quyền và lợi ích của Nhân dân, “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện thành một, thì chủ trương, chính sách đó được Nhân dân đồng tình ủng hộ, nhanh chóng đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả; chủ trương, chính sách nào không xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích của Nhân dân, thì sẽ rất khó đi vào cuộc sống, thậm chí thất bại. Đường lối đổi mới thông qua tại Đại hội VI được bắt nguồn và hình thành từ chính sáng kiến, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân ở các địa phương, cơ sở là một minh chứng rất rõ về vai trò của quần chúng nhân dân trong việc hình thành chủ trương, đường lối của Đảng.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng [1991], trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng đã nêu lên các bài học kinh nghiệm, thì bài học thứ hai đó là: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”[7].

Tiếp sau Đại hội VII, ở các kỳ Đại hội trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, vấn đề “lấy dân làm gốc”: chăm lo đời sống cho Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được Đảng khẳng định là một trong những bài học kinh nghiệm và là phương châm trong công tác lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, trong Báo cáo chính trị trình tại Đại hội, khi tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng đã rút ra 5 bài học hết sức quan trọng, trong đó tiếp tục khẳng định bài học lấy dân là gốc: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đồng thời, trong Báo cáo cũng nêu rõ: Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đây vừa là sự khẳng định về tầm quan trọng của bài học lấy dân làm gốc trong suốt quá trình 35 năm Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới và cũng là quan điểm chỉ đạo đòi hỏi các cấp, các ngành và mọi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục quán triệt sâu sắc trong hoạt động thực tiễn. Bởi thực tiễn trong quá trình 35 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới đã cho thấy, với quan điểm “lấy dân làm gốc”, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, văn bản mang tính chiến lược về phát huy vai trò sức mạnh của Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân. Trong đó có nhiều Nghị quyết đã được đông đảo các tầng lớp Nhân dân hưởng ứng như: Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh” [6/1997]; Chỉ thị 30 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cở sở” [18/2/1998]; Kết luận 120 về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” [7/1/2016];... Cùng với các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013 cũng đã khẳng định rõ về vai trò của Nhân dân: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Điều đặc biệt là lần đầu tiên trong Hiến pháp, tại Điều 4, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, điểm 2 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Vậy là không chỉ lãnh đạo Nhân dân, phục vụ Nhân dân, Đảng còn phải chịu sự giám sát của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân.

Với nhận thức đúng đắn đó, Đảng đã lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện nhiều hình thức để phát huy sức mạnh đoàn kết, sự đóng góp của Nhân dân và đồng thời không ngừng chăm lo mọi mặt đời sống của Nhân dân. Các cuộc lấy ý kiến của Nhân dân cả nước vào dự thảo Cương lĩnh, văn kiện Đại hội Đảng, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, dự thảo các đạo luật đã phát huy trí tuệ, tâm huyết của nhân dân để xây dựng, hoàn thiện các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, phục vụ tốt hơn cuộc sống của người dân. Chính vì vậy, mặc dù công cuộc đổi mới tiến hành trong bối cảnh tình hình với nhiều khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhờ có Nhân dân tham gia, Nhân dân đồng tình hưởng ứng đã tạo thành một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân giúp cho đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều vấn đề và những hiện tượng đang tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của Nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tới sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân... đang gây bức xúc trong dư luận cùng với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng đang tác động lớn đến lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây chính là những thách thức đang đặt ra đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ, đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền và toàn thể cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ và nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, trong đó có quan điểm “lấy dân làm gốc”. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải nhận thức rõ được sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, được lòng dân. Muốn được lòng dân, có lòng dân thì toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhằm vào mục đích vì lợi ích của Nhân dân. Tạo cơ chế để dân phát huy đầy đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của mình. Tập trung giải quyết bức xúc, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân liên quan đến lợi ích, đời sống, việc làm; chống tham nhũng, lãng phí; xử lý nghiêm những tiêu cực… Có như vậy, chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước hiện thực hoá mục tiêu như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Ths Lê Hải Yến, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa

[1] C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t1, tr347.

[2] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát x cơ va, 1979, t39, tr251.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t10, tr197

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t5, tr409- 410

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr. 362.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 47, tr. 363

Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5

Ths Lê Hải Yến, Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa

Video liên quan

Chủ Đề