Nội dung chủ yếu của chính sách quân điền thời Đường là

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Nội dung của Chế độ quân điền và tổ chức điền trang ở Trung quốc thời cổ đại: Ruộng đất tư hữu bắt đầu ra đời ở Trung quốc từ thời Xuân Thu. Từ thời chiến quốc về sau, ruộng đất tư ngày càng phát triển. Trong khi đó ruộng đ ất công v ẫn ph ải tiếp tục tồn tại. Do vậy hai hình thái sở hữu ruộng đất của Nhà nước và của tư nhân song song tồn tại từ đầu đến cuối chế độ phong kiến. Bộ phận ruộng đất thuộc quyền quản lí trực tiếp của Nhà nước, trong sử sách Trung quốc thường được gọi bằng các tên như công điền, vương điền, quan điền …Nguồn gốc của loại ruộng đất này, ngoài bộ phận ruộng đất vốn có của Nhà nước, còn có ruộng đất vắng chủ sau những thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Trên cơ sở quyền sở hữu của mình, các triều đại phong kiến đem ban cấp cho quý tộc quan lại làm bổng lộc và tổ chức thành đồn điền, điền trang để sản xuất hoặc chia cho nông dân dưới hình thức quân điền để thu tô thuế. - Chế độ quân điền do nhà vua Hiếu Văn Đế của triều Bắc Ngụy [thuộc tộc tiên ti] ban hành năm 485, mục đích nhằm khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp b ảo đảm nguồn thuế khóa cho nhà nước. Chế độ quân điền tồn tại từ cuối thế kỉ V đến cuối thế kỉ VIII ở các triều Bắc ngụy, Bắc Tề, Tùy, Đường… * Chế độ quân điền với những nội dung qui định như: - Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lí chia cho nông dân cày cấy . + Thời Bắc Ngụy, đàn ông từ 15 tuổi trở lên được cấp 40 mẫu ruộng trồng lúa [lộ điền] và 20 mẫu trồng dâu, đàn bà được cấp 20 mẫu ruộng trồng lúa, nô tì cũng được cấp như người tự do, bò cày được cấp mỗi con 30 mẫu, nếu ruộng thuộc loại đất phải đ ể nghỉ 1 hay 2 năm thì được nhân gấp đôi hoặc gấp 3. + Thời Đường thì qui định đàn ông từ 18 tuổi trở lên được cấp 80 mẫu ruộng trồng lúa gọi là khẩu phần và 20 mẫu ruộng trồng dâu gọi là ruộng vĩnh nghiệp, cụ già, người tàn tật, ốm yếu được cấp 40 mẫu ruộng khẩu phần , bà góa được cấp 30 mẫu ruộng khẩu phần, nếu là chủ hộ thì được cấp nữa suất của tráng đinh. - Các quan lại tùy theo chức vụ cao thấp được cấp ruộng đất làm bổng lộc. + Thời Bắc Ngụy, quan lại thấp nhất được 6 koảnh [1 khoảnh = 100 mẫu], cao nhất được 15 khoảnh. + Thời đường, quý tộc, quan lại tùy theo địa vị, công lao, chức tước mà đ ược ban cấp ruộng. Ruộng vĩnh nghiệp ban cho quý tộc được phong tước và các quan từ ngũ tứ trở lên, ít nhất là 5 khoảnh, nhiều nhất là 100 khoảnh, ruộng thưởng công ban cho những người có chiến công, ít nhất 60 mẫu, nhiều nhất được 30 khoảnh, ruộng chức vụ ban cho các quan lại làm lương bổng, ít nhất là 80 mẫu, nhiều nhất là 12 khoảnh. - Ruộng trồng lúa đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước, còn ruộng trồng dâu, ruộng vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng chức vụ phải giao lại cho người kế nhiệm , trừ ruộng ban thưởng cho quý tộc, quan lại được tự mua bán, ruộng cấp cho nông dân thì không được chuyển nhượng. Nhưng, trong một số trường hợp đặc biệt như nông dân thiếu hoặc thừa ruộng trồng dâu hoặc gia đình có việc tang ma mà qúa nghèo túng thì có thể mua bán ruộng trồng dâu, hoặc nông dân dời chổ từ nơi ít ruộng đất đến nơi nhiều ruộng đất thì được bán cả ruộng khẩu phần. Chế độ quân điền là một chính sách chung của cả nước, nhưng thời Tùy , Đường, chế độ đó thực tế chỉ thi hành ở miền bắc, nơi có nhiều ruộng vô chủ mà thôi. Sau khi thi
  2. hành chế độ quân điền, những người nông dân không có ruộng hoặc có ít ruộng đ ất, những người đi lưu tán trở về quê hương đều được cấp ruộng đất. Do đó họ đã trở thành nông dân cày cấy, ruộng đất công thoát khỏi sự lệ thuộc vào địa chủ. Hơn nữa, do việc giao ruộng đất cho nông dân nên toàn bộ ruộng đất bị bỏ hoang vì chiến tranh đã đ ược canh tác trở lại, vì thế Nhà nước lại được phát triển. Nhà nước và nông dân đều có lợi. * Tổ chức điền trang: Do sự chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ và số ruộng đất do nhà nước quản lý từ triều Tống về sau chỉ được ban cấp cho quan lại, thân vương, công chúa lập điền trang gọi là hoàng trang, quan trang, tỉnh trang mà thôi, cùng với sự tiến triển của lịch sử, giai cấp địa chủ ngày càng giàu và đồng thời xã hội ngày càng bị địa chủ lớn chiếm hữu r ất nhiều ruộng đất. Ruộng tư ngày ngày phàt triển và số ruộng đất tập trung vào tay bọn địa chủ cũng ngày một nhiều . Trên cơ sở ấy, từ thời Đông Hán tổ chức điền trang đã ra đời và tồn tại lâu dài trong lịch sử. Tương tự như những trang viên phong kiến ở Tây Âu, điền trang là những đơn vị kinh tế tự sản, tự tiêu. Trong các điền trang không những chỉ trồng các loại ngũ cốc mà còn trồng các loại cây nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghề thủ công như dâu, đay… Ngoài ra ở đây còn có vườn cây ăn quả, ao thả cá, bãi chăn nuôi, trong điền trang lại có nghề thủ công như nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải, nhuộm, may, nấu rượu, làm tương, chế thuốc, làm công cụ, binh khí…Có thể cung cấp đủ nhu cầu hàng ngày cho điền trang và trang dân, điền trang còn có nơi khai thác gổ, quặng, sắt… do đó phạm vi tự túc l ại càng đông. Những người lao động trong điền trang từ thời ĐôngHán đến Nam Bắc triều là điền khách, bộ khúc, nô tì. + Điền khách là những nông dân lĩnh canh ruộng đất của điền trang và có nghĩa vụ phải nộp tô cho chủ. Hình thức địa tô chủ yếu là tô sản phẩm. + Bộ khúc là những điền khách được luyện tập quân sự, ngày thường thì sản xuất nông nghiệp, khi có chiến sự thì trở thành lượng tự vệ của điền trang. + Nô tì ngoài việc phục vụ cho tầng lớp địa chủ, còn giữ địa vị khá quan trọng trong sản xuất, nhất là trong thủ công nghiệp. Trong điền trang cả Điền khách và bộ khúc đều là nông dân lệ thuộc vào chủ điền trang. Tuy nhiên mức độ lệ thuộc ấy không chặt chẽ như nông nô ở phương tây. Họ không bị đời đời buộc chặt vào ruộng đất của chủ, mà có thể tự ý rời bỏ điền trang b ất cứ lúc nào. - Điền trang ở Trung quốc tồn tại trong điều kiện có bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương nên điền trang không phải là những đơn vị hành chính và tư pháp. - Đến thời Đường, Tống cùng với sự phát triển của ruộng tư hữu, số điền trang trong nhà nước càng nhiều hơn. Nhưng đồng thời do sự phát triển của kinh tế Nhà nước, tính chất tự nhiên của kinh tế điền trang có giảm bớt, có một số điền trang đã sản xuất rau, đốt than… để đem ra bán ở thị trường. Mặt khác, thân phận của lực lượng lao động sản xuất chủ yếu trong các điền trang [nay gọi là trang khách] thuần túy là những tá điền của địa chủ, những thay đổi trong tổ chức điền trang thời Đường, Tống chính là những biểu hiện của sự tan rã dần dần của chế độ điền trang ở Trung quốc. Trần Thị Yến Phi
  3. Sinh viên lịch sử

Page 2

YOMEDIA

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Chế độ quân điền thời nhà Đường có nội dung cơ bản là


A.

chia ruộng đất bình quân cho nông dân.

B.

lấy ruộng đất công ban thưởng cho người có công.

C.

chia ruộng đất công cho quan lại và đại thần.

D.

chia ruộng đất công và đất bỏ hoang cho nông dân.

Quân điền chế [tiếng Trung: 均田制] là một thể chế về sở hữu và phân phối đất đai trong lịch sử Trung Quốc từ thời Lục triều đến giữa thời nhà Đường.

Thời nhà Hán, chế độ Tỉnh điền dần đã không còn được sử dụng ở Trung Quốc, mặc dù các nhà cải cách như Vương Mãng đã cố gắng khôi phục nó. Thay vào đó, chế độ Quân điền được đưa vào áp dụng vào khoảng năm 485, do Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế áp dụng tại một vương quốc không phải người Hán ở Bắc Trung Quốc, trong thời kỳ Nam - Bắc triều. Thể chế này cuối cùng đã được các triều đình khác chấp nhận và tiếp tục sử dụng nó qua các triều đại Tùy - Đường.[1][2][3]

Mục lục

  • 1 Nền tảng
  • 2 Sự sụp đổ
  • 3 Ảnh hưởng ở Nhật Bản
  • 4 Chú thích

Nền tảngSửa đổi

Thể chế này hoạt động trên cơ sở hầu hết đất đai thuộc sở hữu của triều đình, sau đó sẽ giao cho các gia đình quản lý. Mỗi cá nhân, kể cả nô lệ, được hưởng một diện tích ruộng đất nhất định, tùy thuộc vào khả năng cung ứng lao động của họ. Ví dụ, những người đàn ông khỏe mạnh đã nhận được 40 mẫu đất [tương đương khoảng 1,1 ha hoặc 2,7 mẫu Anh], trong khi phụ nữ nhận được ít hơn, và nhiều khoản đất được cấp thêm một con bò thuộc sở hữu của gia đình. Sau khi người được giao quản lý đất chết, đất sẽ được giao lại cho triều đình để được phân phối lại, mặc dù các điều khoản được cho phép để thừa kế đất cần phát triển lâu dài, chẳng hạn như trang trại cho dâu tằm [đối với tằm].

Thế chế này được dự định để thúc đẩy sự phát triển của đất đai và để đảm bảo rằng không có đất nông nghiệp nào bị bỏ hoang. Điều này ngăn cản giới quý tộc phát triển các cơ sở quyền lực lớn bằng cách độc quyền các lĩnh vực, và cho phép người dân thường tham gia vào canh tác và đảm bảo sinh kế của họ. Từ những điều này, triều đình đã có thể phát triển một cơ sở thuế và làm chậm quá trình tích tụ đất đai bằng những bất động sản rộng lớn. Điều này cũng được các triều đại nhà Đường sử dụng để phá vỡ chu kỳ triều đại. Chu kỳ triều đại là ý tưởng rằng tất cả các triều đại sẽ chấm dứt và điều này sẽ ngăn chặn nó bằng cách người dân nhận được đất từ triều đình; điều này làm cho họ cảm thấy như triều đình đã cho họ một cái gì đó mặc dù nó không bao giờ rời đi.

Sự sụp đổSửa đổi

Thể chế này cuối cùng cũng ngừng áp dụng sau loạn An Sử, khi triều đình bắt đầu mất quyền kiểm soát tập trung đối với các lãnh thổ của mình. Mặc dù tất cả các vùng đất trên lý thuyết thuộc về triều đình, các gia đình quý tộc đã có thể có được đất đai một cách hợp pháp và có thể xây dựng tài sản của họ. Các tự viện Phật giáo cũng vậy, đã kiểm soát nhiều khu ruộng đất rộng lớn. Nông dân thường làm thuê cho các gia đình địa chủ và trở thành nông nô hoặc nô tỳ trong thời gian xảy ra thiên tai và xung đột để đảm bảo an ninh của chính họ. Việc mất dần đất đai chịu thuế là một lý do cho sự suy tàn của nhà Đường. Mô hình địa chủ giữ đất do nông dân thuê canh tác sẽ tiếp tục trong suốt phần còn lại của lịch sử Trung Quốc cho đến khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949.

Ảnh hưởng ở Nhật BảnSửa đổi

Chế độ Quân điền đã được Nhật Bản áp dụng do kết quả của cải cách Taika do Thánh Đức Thái tử thực hiện [xem Ritsuryō], mặc dù vẫn còn tranh cãi về mức độ áp dụng thực sự. Các hành tỉnh gần kinh đô bị quản lý và đánh thuế chặt chẽ hơn, khiến nông dân phải chạy trốn đến các hành tỉnh xa xôi. Ở Nhật Bản cũng vậy, thể chế này không còn được sử dụng khi đất đai trở lại sở hữu tư nhân; các sắc chỉ năm 723 cho rằng các vùng đất mới phát triển có thể được thừa kế trong ba thế hệ trong khi một nghị định sau đó vào năm 743 cho phép các vùng đất phát triển này được giữ vĩnh viễn. Đến năm 800, kế hoạch phân phối lại đất đai thực tế đã bị hủy bỏ do điều tra dân số và phân phối trở nên không thường xuyên. Tuy nhiên, thể chế này vẫn tồn tại, ít nhất là trên lý thuyết, trong nhiều năm sau đó.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Charles Holcombe [tháng 1 năm 2001]. The Genesis of East Asia: 221 B.C. - A.D. 907. University of Hawaii Press. tr.136–. ISBN978-0-8248-2465-5.
  2. ^ David Graff [ngày 2 tháng 9 năm 2003]. Medieval Chinese Warfare 300-900. Routledge. tr.140–. ISBN978-1-134-55353-2.
  3. ^ Dr R K Sahay [ngày 24 tháng 5 năm 2016]. History of China's Military. Vij Books India Pvt Ltd. tr.103–. ISBN978-93-86019-90-5.

Video liên quan

Chủ Đề