Phác đồ điều trị hp bộ y tế 2023

07:11, 19/10/2019

Không phải tất cả những người nhiễm vi khuẩn HP đều là bệnh lý, không phải bệnh nhân nào nhiễm vi khuẩn HP cũng cần điều trị và không phải bệnh nhân nào nhiễm vi khuẩn HP cũng tiến triển thành ung thư. Đó là khẳng định của tiến sĩ, bác sĩ Trần Thị Thúy Minh, Trưởng Khoa Nhi tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có rất nhiều người hiểu không đúng về loại vi khuẩn này dẫn đến tình trạng điều trị kháng sinh một cách “vô tội vạ”.

Cách đây không lâu, chị Trần Thị Hương [39 tuổi, ở xã Ea M’nang, huyện Cư M’gar] có biểu hiện đầy hơi, ăn uống khó tiêu, lại thường xuyên bị đau bụng nên đến khám tại một phòng khám tư tại TP.  Buôn Ma Thuột. Sau thăm khám và được chỉ định nội soi dạ dày, chị Hương được chẩn đoán bị viêm loét dạ dày, nhiễm vi khuẩn HP và được bác sĩ kê đơn thuốc điều trị.

Về nhà, nghe nhiều người nói trong gia đình có người bị nhiễm vi khuẩn HP thì cả nhà đều bị lây và nếu không điều trị rất dễ bị ung thư dạ dày, chị Hương lo sợ liền đưa chồng và cô con gái 6 tuổi đi kiểm tra vi khuẩn HP tại phòng khám tư. Kết quả cho thấy cả hai cha con đều nhiễm loại vi khuẩn này và cùng được bác sĩ kê đơn thuốc về điều trị.

Tương tự, cháu Vi Văn Lâm [6 tuổi, ở thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông] dù không có biểu hiện bệnh tật hay đau ốm gì nhưng do bố cháu đang điều trị viêm loét dạ dày và vi khuẩn HP, sợ con cũng bị lây nên gia đình đưa cháu Lâm đi kiểm tra. Kết quả, cháu Lâm dương tính với vi khuẩn HP. Tuy nhiên, dù được các bác sĩ giải thích rằng không cần điều trị cho cháu Lâm vì không có tổn thương dạ dày nhưng gia đình cháu vẫn năn nỉ bác sĩ kê đơn thuốc để điều trị. Không được các bác sĩ đáp ứng yêu cầu, gia đình cháu Lâm tiếp tục đưa con đến Bệnh viện Nhi đồng 2 tại TP. Hồ Chí Minh điều trị. Tại đây, các bác sĩ vẫn trả lời rằng dù kết quả kiểm tra trẻ có dương tính với vi khuẩn HP song nếu không có triệu chứng gì thì không cần điều trị bởi việc điều trị không cần thiết sẽ gây nên tình trạng kháng thuốc.

Trẻ bị viêm loét dạ dày kèm dương tính vi khuẩn HP điều trị tại Khoa Nhi tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên. Ảnh: Đ.Thi

 Theo tiến sĩ, bác sĩ Trần Thị Thúy Minh, vi khuẩn HP có tên khoa học là Helicobacter pylori [được viết tắt trong các phiếu khám bệnh là H.Pylori hoặc khuẩn HP]. Đây là một loại vi khuẩn sống ở lớp nhầy niêm mạc dạ dày. Theo kết quả điều tra dịch tễ học năm 2016, tỷ lệ trẻ nhiễm vi khuẩn HP tại Việt Nam là khoảng 40% và trẻ có xu hướng nhiễm HP từ rất sớm, tỷ lệ nhiễm HP tăng nhanh trong giai đoạn trẻ ăn dặm và đi nhà trẻ từ 2 - 6 tuổi. Đáng lo ngại là suy nghĩ rằng vi khuẩn HP trong dạ dày là có hại đang rất phổ biến; thậm chí nhiều người còn cho rằng có kết quả dương tính với vi khuẩn HP mà không điều trị sẽ bị ung thư dạ dày. Suy nghĩ này khiến nhiều người lo lắng thái quá, chủ động đưa các thành viên trong gia đình đi làm kiểm tra vi khuẩn HP; khi có kết quả dương tính HP, dù không có chỉ định của bác sĩ vẫn đến các phòng khám tư đề nghị được điều trị.

Bác sĩ Minh cho biết, vi khuẩn HP không phải luôn luôn có hại. Dù vi khuẩn HP là một trong những nguyên nhân chính gây viêm hoặc loét dạ dày và chỉ có một vài tuýp của vi khuẩn HP có thể gây ung thư dạ dày nhưng nhiều trường hợp nhiễm vi khuẩn HP vẫn sống yên bình cho đến cuối đời. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần hết sức tỉnh táo, chỉ đưa trẻ đi xét nghiệm khi có chỉ định của bác sĩ hoặc khi trẻ có triệu chứng: đau bụng kéo dài, sụt cân, đầy hơi, buồn nôn, nôn… Khi trẻ em và cả người lớn có kết quả dương tính với vi khuẩn HP, chỉ nên điều trị trong các trường hợp sau: bệnh nhân có bằng chứng nhiễm vi khuẩn HP kèm theo nội soi dạ dày, tá tràng có chẩn đoán viêm hoặc loét dạ dày; những trường hợp có nhiễm vi khuẩn HP trong điều kiện không nội soi được, chỉ điều trị những trường hợp viêm dạ dày teo hoặc gia đình có tiền căn ung thư dạ dày. Lúc này, việc điều trị tuân theo phác đồ của y, bác sĩ là vô cùng quan trọng nhằm ngăn ngừa các biến chứng cũng như ung thư dạ dày.

Việc điều trị kháng sinh khi có kết quả dương tính với vi khuẩn HP một cách đại trà là không đúng và cũng không phải là biện pháp ngăn ngừa ung thư. Tất cả vấn đề điều trị kháng sinh đều nên tuân theo phác đồ của Bộ Y tế. Việc điều trị kháng sinh bừa bãi, tràn lan, nhất là kháng sinh diệt vi khuẩn HP có thể diệt luôn vi khuẩn có lợi trong đường ruột, gây mất cân bằng hệ thống vi khuẩn trong đường ruột, gây rối loạn tiêu hóa kéo dài và đặc biệt gây nên tình trạng kháng sinh [kháng thuốc]. 

Mỹ Hạnh

Người viết: Tổ truyền thông

09/11/2019 15:58:08

Nhằm cập nhật, bổ sung thêm kiến thức chuyên môn cho đội ngũ Y Bác sĩ cũng như tạo điều kiện để cán bộ Y tế Bệnh viện trao đổi, thảo luận kiến thức chuyên ngành, Chiều ngày 05/11/2019 Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học thường niên tháng 11 với 02 chuyên đề: Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori của Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa; Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật của Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng.

Tại buổi sinh hoạt, Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa trình bày về chuyên đề Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori[HP]. Vi khuẩn HP dịch tễ: Là một trong những nhiễm trùng phổ biến ở người. Phần lớn nhiễm ở độ tuổi trước 10 tuổi, tỷ lệ nam và nữ như nhau. Nguồn bệnh duy nhất là người, vi khuẩn cư trú ở dạ dày, lây truyền qua đường phân - miệng hoặc miệng - miệng. Các phương pháp chẩn đoán nhiễm HP bao gồm: Thứ nhất là Các test xâm lấn như: Test Urease; Nuôi cấy vi khuẩn; Khuếch đại chuỗi polymerase [PCR]; Chẩn đoán mô bệnh học. Thứ hai là các test không xâm lấn: Test thở; Test huyết thanh; Phát hiện kháng thể kháng Hp trong nước tiểu; Phát hiện Hp trong phân bằng PCR; Phát hiện kháng nguyên HpSA trong phân. Phần thứ ba là điều trị HP bao gồm: Chỉ định bắt buộc; Chỉ định có thể: Xuất huyết giảm tiểu cầu nguyên phát, thiếu máu thiếu sắt. Sau đó, Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu đưa ra các phác đồ điều trị như: Phác đồ 3 thuốc có clarithromycin; Phác đồ 4 thuốc có bismuth; Liệu pháp đồng thời; Phác đồ nối tiếp; Liệu pháp phối hợp; Phác đồ 3 thuốc có levofloxacin; Phác đồ nối tiếp có fluoroquinolone; Phác đồ kép liều cao với amoxicillin; Phác đồ 3 thuốc có Rifabutin [PPI, amoxicillin, rifabutin: PAR]. Kháng kháng sinh của HP: Các đột biến điểm nằm trên chromosome; Hình thành biofilm; Lẩn tránh kháng sinh: Chuyển dạng hình cầu, chuyển vị trí cư trú. Cuối cùng Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu đưa ra các thách thức trong điều trị: Sự tuân thủ điều trị; Đề kháng kháng sinh của Hp; Nhiễm Hp gia đình; Một số yếu tố khác: Hút thuốc lá, đái tháo đường, sử dụng nhiều loại kháng sinh khác.

Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa trình bày về chuyên đề “Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori”

Cũng tại buổi sinh hoạt khoa học các cán bộ Y tế đã được nghe Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng trình bày, trao đổi về chuyên đề: Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật. Tiền sản giật: [Theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế 2015 và ACOG] chẩn đoán xác định: Huyết áp tâm thu [HATT] ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương [HATTr] ≥ 90mmHg sảy ra sau tuần thai thứ 20 của thai phụ có huyết áp bình thường trước đó hoặc tăng huyết áp mạn tính trong suốt thời kỳ mang thai. Có protein niệu ≥ 0,3g/24 giờ. Cơ chế bệnh sinh: Trong suốt quá trình mang thai, tế bào thuộc lớp trong lá nuôi di chuyển đến động mạch xoắn tử cung, thay thế lớp tế bào nội mô mao mạch, phá hủy sự đàn hồi của lớp áo giữa, cơ trơn, mô thần kinh. Với mục tiêu nghiên cứu là: Đánh giá sự biến đổi chức năng  tâm trương ở người phụ nữ mang thai bình thường và tiền sản giật trong quá trình mang thai. Khảo sát các thông số về hình thái, chức năng và huyết động thất trái bằng siêu âm Doppler tim ở phụ nữ mang thai bình thường, tiền sản giật. Bằng các phương pháp nghiên cứu như: Đo chỉ số nhân trắc; Đo huyết áp; Thăm dò chức năng tâm trương thất trái. Đối tượng của nghiên cứu: Nhóm 1: 86 sản phụ tiền sản giật đang điều trị tại khoa A1 – Bệnh viện phụ sản Hà Nội. Nhóm 2: 104 sản phụ mang thai bình thường tại bệnh viện đa khoa Hà Đông.

Qua nghiên cứu Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh đưa ra kết luận: Nhóm phụ nữ mang thai bình thường: Suy chức năng tâm trương thất tráichỉ xuất hiện kỳ 3 tháng cuối và không có trường hợp nào suy mức độ 3. Nhóm mang thai tiền sản giật: Suy chức năng tâm trương thất trái ở nhóm mang thai tiền sản giật [48,8%] cao hơn so với nhóm mang thai bình thường kỳ 3 tháng cuối [11,6%], với [p< 0,001]; Suy chức năng tâm trương giai đoạn 1, 2 và 3 ở nhóm mang thai bị tiền sản giật [18,6%; 27,9% và 2,3%] cao hơn so với nhóm mang thai bình thường [8,7%; 2,9% và 0%], với [p < 0,001].

Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng trình bày về chuyên đề “Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật”

Thông qua nghiên cứu Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh đưa các khuyến nghị: Phụ nữ mang thai nếu bị tăng huyết áp hoặc được chẩn đoán xác định tiền sản giật thì cần được làm siêu âm Doppler tim nhằm phát hiện sớm các bất thường tim mạch để có thái độ xử trí. Cần có những nghiên cứu tiếp theo đối tượng người mang thai bị tiền sản giật về các bệnh lý tim mạch sau khi sinh cũng như nghiên cứu các ảnh hưởng trên thai nhi để có đánh giá toàn diện về bệnh lý.

Trong buổi sinh hoạt khoa học, các báo cáo viên và các cán bộ Y tế đã tham gia thảo luận, trao đổi về nội dung liên quan đến chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori cũng như biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật.

Buổi sinh hoạt khoa học nhằm giúp các cán bộ Y tế của Bệnh viện cập nhật các thông tin, đồng thời góp phần nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ Y tế về chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori cũng như biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật. Từ đó, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe người bệnh và cho nhân dân.

Chủ Đề