Phân tích đối tượng nghiên cứu của khu vực học

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Nghiên cứu được hiểu là một công việc được thực hiện bằng cách tìm hiểu, khảo sát, học tập có tính cách khoa học để khám phá kiến thức mới cũng như áp dụng những kiến thức của mình vào công việc nghiên cứu đó.

Nghiên cứu là một công việc được nhiều người thực hiện trong quá trình làm việc cũng như học tập của mình. Một trong những nội dung quan trọng cần xác định khi thực hiện công việc nghiên cứu là xác định được đối tượng nghiên cứu. Vậy Đối tượng nghiên cứu là gì?

Để lý giải được những thắc mắc của mình về vấn đề này, mời Qúy bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi về Đối tượng nghiên cứu là gì?

Trước khi tìm hiểu về khái niệm đối tượng nghiên cứu ta cần hiểu khái niệm nghiên cứu là gì?

Nghiên cứu được hiểu là một công việc được thực hiện bằng cách tìm hiểu, khảo sát, học tập có tính cách khoa học để khám phá kiến thức mới cũng như áp dụng những kiến thức của mình vào công việc nghiên cứu đó. Nghiên cứu bao gồm một hệ thống gồm những bước có trình tự để giải quyết vấn đề. Nghiên cứu khoa học là một công cụ cho sự phát triển của khoa học, bất kỳ là khoa học thuần túy hoặc ứng dụng.

Khái niệm đối tượng nghiên cứu là gì? hiện không có một văn bản nào đề cập. Tuy nhiên có thể hiểu đối tượng nghiên cứu là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.

Từ khái niệm trên ta cần hiểu phạm vi nghiên cứu là gì? Phạm vi nghiên cứu là giới hạn khảo sát đối tượng nghiên cứu trong trong phạm vi nhất định. Thống nhất về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.

Có thể lấy ví dụ về đề tài nghiên cứu là: Thực trạng đọc sách của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội. Như vậy đối tượng nghiên cứu là việc đọc sách của sinh viên trường đại học Luật Hà Nội.

Phạm vi nghiên cứu ở trường Đại học Luật Hà nội và thời gian cho phép cuộc nghiên cứu diễn ra.

Các loại hình nghiên cứu khoa học thường gặp

Nghiên cứu khoa học là công việc được thực hiện khá thường xuyên trong lĩnh vực học tập cũng như là một công việc của nhiều người.Nghiên cứu khoa học bao gồm những loại hình nghiên cứu như sau:

– Nghiên cứu cơ bản

Đây là hoạt động nghiên cứu giúp phát hiện ra bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng có trong tự nhiên, xã hội và con người. Nhờ vào những phát hiện này để làm thay đổi về nhận thức của con người.

– Nghiên cứu ứng dụng

Hoạt động nghiên cứu này sẽ vận dụng những quy luật đã được phát hiện bởi nghiên cứu cơ bản. Nhờ vào đó sẽ giúp giải thích được những vấn đề, sự vật, hiện tượng nhằm giúp hình thành nguyên lý công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới và áp dụng chúng vào hoạt động sản xuất và trong đời sống…

– Nghiên cứu triển khai

Hoạt động nghiên cứu triển khai là vận dụng những quy luật có được từ nghiên cứu cơ bản và những nguyên lý trong công nghệ, nguyên lý vật liệu được lấy từ nghiên cứu ứng dụng. Tất cả giúp đưa ra những vật mẫu về phương diện kỹ thuật.

– Nghiên cứu thăm dò

Hoạt động nghiên cứu thăm dò nhằm xác định ra các phương hướng nghiên cứu, thăm dò thị trường giúp phát hiện ra những cơ hội mới.

Ý nghĩa của nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển xã hội và đồng thời mang lại cho chính người tiến hành nghiên cứu nhiều lợi ích.

– Đối với người tiến hành nghiên cứu:

Nghiên cứu khoa học mang tới nhiều ý nghĩa cho người thực hiện nghiên cứu. Bằng việc nghiên cứu khoa học thì người thực hiện nghiên cứu sẽ chủ động và hình thành được những phương pháp, tư duy mới. Từ đó sẽ giúp phát hiện ra vấn đề và giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.

– Đối với xã hội:

Nghiên cứu giúp cho việc phát hiện và tạo ra những kiến thức cũng như các giải pháp để nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người…

Trên đây là bài viết của chúng tôi liên quan đến vấn đề Đối tượng nghiên cứu là gì? Chúng tôi hi vọng rằng qua bài viết, sẽ giúp Qúy bạn đọc nắm rõ về nội dung này. Chúng tôi sẽ tiếp tục mang đến những nội dung bổ ích trong các bài viết tiếp theo.

nhận thức thế giới hiện đại với rất nhiều vấn đề mà thực tiễn đang đật ra nhưng lạikhó có thể giải quyết trong phạm vi một chuyên ngành, càng ngày càng có nhiểulời kêu gọi, nhiều dự án cho việc hợp tác liên ngành. Tuy nhiên, bất chấp những lờikêu gọi đó, những bức tường ngăn cách giữa các chuyên ngành dường như ngàycàng trở nên cao hơn và khó vượt qua hơn.Nghiên cứu khu vực là một trong nhiều bộ môn khoa học liên ngành phảiđối mặt với những bức tường không dễ vượt qua đó. Tri thức của nhân loại về thếgiới vẫn tổn tại một sự nhận thức chung rằng các nền văn hóa và các xã hội của loàingười hoàn toàn không thuần nhất. Sự khác biệt luôn luôn hiện hữu ở khắp cácvùng trên trái đất và khó mà mất đi, thậm chí có thể nói là không bao giờ mất đi.Chúng là kết quả của những nhân tố, những sự kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử khácnhau, đan xen vào nhau trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại. Chúng rất phứctạp và khó có thể giải thích nội trong khuôn khổ của bất kỳ một khoa học chuyênngành nào, mặc dù đã có những khi người ta lầm tưởng rằng những khác biệt đó cóthể quy cho những giai đoạn phát triển khác nhau và mặc nhiên coi việc giải thíchchúng là công việc của các nhà sử học. Thực tế ngày càng cho thấy rõ rằng chi cómột loại khoa học liên ngành như nghiên cứu khu vực mới có khả nãng lý giảinhững khác biệt đó một cách toàn diện và thuyết phục.Bằng cách vận dụng cách tiếp cận liên ngành và những phương pháp nghiêncứu đa dạng để hiểu được các nền văn hóa và xã hội khác nhau, các học giá khuvực học đã biểu hiện những nỗ lực to lớn nhằm đưa ra những hiểu biết toàn diện vềcác khu vực. Những kết quả mà họ đã đạt được đã làm giàu nhanh chóng cho khotri thức của nhân loại về các xã hội và các nền vãn hóa khác nhau. Tuy nhiên, vàonhững thời gian đầu của nghiên cứu khu vực, do chưa có một cơ sở phương phápluận như thông thường, bộ môn nghiên cứu khu vực học luôn trở thành đối tượnggièm pha của các khoa học chuyên ngành. Nghiên cứu khu vực vào giai đoạn đầu ỡtất cả các quốc gia hình như đéu có chung một số phận như thế. Nó thường bị coi làkhông có tính chuyên môn và do đó, không thực sự mang tính học thuật, điều nàylàm cho nó phải chịu một địa vị thấp kém trong các trường đại học. Một lý do nữakhông kém phần quan trọng, vào giai đoạn đầu của khu vực học, các học giả đượcxcm là “nhà khu vực học” đểu xuất phát từ một chuyên ngành khoa học xã hội vànhân văn truyền thống như sử học, ngôn ngữ học, văn học, xã hội học, nhân học...Hệ quả là, phần lớn các nhà khu vực học đểu có hai chức danh, chẳng hạn vừa làmột nhà sử học vừa là một chuyên gia Trung Quốc học, hay vừa là một nhà ngônnơữ học vừa là một chuyên gia vể Việt Nam học... Xét trên quan điểm của cácchuyên n°ành truyén thống, điểu này có nghĩa là bộ môn khu vực học có thể bị đẩy ra ngoài lề và bị phân tán lực lượng. Thực tê đó có ảnh hưởng đáng kê đến sự tổntại độc lập và vững chắc của bộ môn khoa học này.Trong quá khứ và cả hiện nay, khu vực học liên ngành không đe dọa thaythế các chuyên ngành nhưng cũng đòi hỏi không kém bình đẳng về địa vị. Tuynhiên, trong khi còn chưa có dấu hiệu của một cuộc tái cơ cấu các khoa khoa họcxã hội và nhân văn theo một mô hình khác mà chúng ta chưa ai tưởng tượng ra thìkhu vực học vẫn cần các khái niệm, các mô hình lý thuyết và phương pháp của cácchuyên ngành để hiểu và giải thích tính đa dạng của các nền văn hóa và các xã hộikhác nhau.Fred w . Riggs đã nhận định “Trong nửa th ế kỷ qua, khu vực học đã pháttriển như một cách thức liên kết nhiều chuyên ngành khác nhau trong nỗ lực nlìằmđạt được một sự hiểu biết mang tính chỉnh thể về những vùng lãnh thổ và nhữngkhu vực ngoài phương Tây - những vùng đất có lịch sử, truyền thống, văn hoá vàcác đặc tính chính trị, xã hội, kinh tế của riêng mìnhKhông khó khăn gì để cóthể nhận thấy những ảnh hưởng của hệ quy chiếu phương Tây trong cách quanniệm về nghiên cứu khu vực của ông. Đó là hạn chế chung của nhiều thế hệ học giảphương Tây chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa châu Âu [và sau này là phương Tây] làtrung tâm của thế giới. Đây cũng là hạn chế chung của các ngành khoa học xã hộiMỹ - đó là việc coi các khu vực thuộc phạm vi nghiên cứu chỉ là các khu vực ngoàiphương Tây. Tuy nhiên, nếu vượt lên trên hạn chế đó, có thể thấy nhận định củaông hàm chứa rất nhiều điều. Thứ nhất, nó là một sự khái quát về cách tiếp cận đênghiên cứu khu vực, đó là tiếp cận liên ngành để mang lại những hiểu biết có tínhchỉnh thể. Thứ hai, nhận định ẩn chứa một hệ luận quan trọng về khái niệm khônggian có tính khu vực [hay vùng lãnh thổ] - một loại không gian với đầy đủ các đặctrưng của nó trên mọi phương diện. Thứ ba, cũng một hệ luận nữa từ nhận địnhnày, đó là những phạm vi [hay lĩnh vực] cần quan tâm của nghiên cứu khu vực khinó lấy một khu vực nào đó làm đối tượng nghiên cứu.1.1. N ghiên cứu khu vực: các khái niệm và quan điểm tiếp cận1.1.1. Khái niệm “khu vực”Theo nghĩa thông thường nhất, khu vực được hiểu theo nghĩa địa lý[geography]. Theo nghĩa này, khu vực là “phân đất dai, trời biển có giới hạn rõràng, được vạch ra dựa trên những tính chất, đặc điểm chung nào đó " 2.' Freg W .Riggs Beyond Area Studies, An Interpretive Paper for the International Sociological Association,Research Committee #20 on Comparative Sociology, Montreal, July 1998.2Từ điểnliếng Việt 1997, Hoàng Phê chù biên, tr 494.- 7- Định nghĩa này có hai vế, vế thứ nhất biểu hiện một sự định vị về khônggian “phần đất đai, trời biển có giới hạn rõ ràng ”, vế thứ hai được xem như mộttiêu chuẩn, một cơ sở nào đó để xác định khu vực hay không gian đó "dược vạchra dựa trên những tính chất, đặc điểm chung nào đó ” .Yumito Sakurai lại cho rằng: khu vực là một không gian có đặc trưngriêng'. Theo tác giả này, các lĩnh vực khoa học đã chia toàn cầu và những phạm vikhông gian ra thành các yếu tố như nước, môi trường, địa hình, khí hậu, dân tộc...và khu vực là một loại không gian tổng hợp các yếu tố như thế để hình thành mộttính đặc trưng.Ví dụ: Việt Nam, đầu tiên là một đơn vị hành chính - Nước Cộng hoà Xãhội chủ nghĩa Việt Nam. Môi trường tự nhiên của Việt Nam là một không gianphức hợp giữa vùng Nhiệt đới như miền Nam và Á nhiệt đới như miền Bắc, mộtkhông gian tổng hợp giữa vùng người Kinh và các dân tộc thiểu số, một khônggian tổng hợp giữa văn hoá bản địa với văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ,văn minh Pháp... Các yếu tố như vậy có quan hệ với nhau rất chặt chẽ và hìnhthành nên một tổng thể không thể tách rời và có tính đặc trưng riêng của khuvực - khu vực Việt Nam.Theo ông, đặc trưng khu vực là kết quả tác động giữa môi trường tự nhiên vàmôi trường nhân tạo trong đó môi trường tự nhiên là yếu tố quan trọng nhất. Kếtquả đó hình thành nên một cảnh quan riêng là tính đặc trưng của khu vực. Hệ luậncủa khái niệm cảnh quan là vấn đề quy mô của một khu vực. Theo cách hiểu này,quy mỏ của một khu vực hoàn toàn do phạm vi nghiên cứu của nhà khu vực họcquyết định. Nếu nhà khu vực học nghiên cứu tính đặc trưng của cảnh quan ViệtNam thì Việt Nam là một khu vực, nếu nhà khu vực học nghiên cứu tính đặc trưngcủa khu vực Hà Nội thì Hà Nội là một khu vực, nếu nhà khu vực học tìm hiểu tínhđặc trưng của khu vực làng Định Công thì làng Định Công là một khu vực.Theo Fred W .Riggs2, quan điểm truyền thống về khu vực của người Mỹ là“một đơn vị lãnh thổ Ổn định trong đó các dân tộc đã sống qua nhiều th ế hệ, sánxuất và tiêu dùng hàng hóa và thông tin mà họ cần một cách tương đối biệt lập vớith ế giới bên ngoài, theo các quy tắc và thói quen văn hóa riêng của họCách hiểukhu vực theo truyền thống của khoa học xã hội Mỹ có sự gần gũi nhất định vớikhái niệm quốc gia dân tộc, nó đúng nhưng chưa thật đầy đủ và chưa bao quát được1 Yumito Sakurai, Khu vực học là g ì? Bài giảng chuyên để tại Viên Việt Nam học và Khoa học phát triẽn,Đại học quốc gia Hà Nội, 2005.2 Freg VV.Riggs, B eyond A rea Studies, An Interpretive Paper for the International Sociological Association,Research Committee #20 on Com parative Sociology, Montreal, July 1998.- 8 - tất cả mọi loại khu vực theo phạm vi. Riggs cũng cho rằng quan niệm trên về khuvực chưa bao giờ hoàn toàn đúng nhưng ông cũng lại thừa nhận rằng nó cũng chứađầy đủ sự thật và lý lẽ để làm cơ sở cho sự tổn tại của một ngành khoa học với đôitượng nghiên cứu riêng biệt là nghiên cứu khu vực.Sau chiến tranh thế giới thứ II, khi ngành khu vực học đã tạo được một chỗđứng nhất định trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở các nước phươngTây thì việc coi khu vực là một lãnh thổ, một vùng đất có dân cư sinh sống có vănhóa, có kinh tế, có thể c h ế chính trị và các đường biên giới ổn định [Theo Riggs]dường như có lý hơn và được giới học giả tán đổng nhiều hơn. So với cách hiểutruyền thống của giới học thuật Mỹ, cách hiểu này có phạm vi rộng hơn, bao quáthơn dù xét về mặt câu chữ, nó chỉ lược đi cái gọi là “sự biệt lập với th ế giới bénngoàiĐiều này dường như có giá trị hơn đối với nghiên cứu khu vực trong bốicảnh toàn cầu hóa. Cũng bởi thực tiễn lịch sử thế giới trong những thập kỷ gần đâyđã chứng minh rằng sự đóng kín và biệt lập của mỗi quốc gia, dù do chủ quan haykhách quan, đểu không mang lại một sự thật tốt đẹp nào cho sự phát triển của quốcgia đó.1.1.2. Khái niệm “Khu vực học”Theo cách hiểu thông thường nhất về khu vực - cách hiểu của từ điên - đãdẫn ở trên, “khu vực học ” là một bộ môn khoa học nghiên cứu về những phần đấtđai hay những khoảng không gian trên mặt đất dược phân giới một cácli rỗ ràngdựa trên những đặc điểm và thuộc tính nhất định.Đây là một khái niệm giải thích theo cách chung nhất cho tất cả các ngànhkhoa học, không đi cụ thể vào những nội dung, phạm vi của đối tượng nghiên cứu.Và cũng vì định nghĩa theo cách chung cho mọi ngành khoa học nên nó lại trởthành quá rộng và chung chung, không nêu bật được những đặc trưng cơ bản củangành học này.John Canning cho rằng “khu vực học là một thuật ngữ chung đ ể chỉ việcnghiên cứu một liay một sô'xã hội thuộc một không gian địa lý nào đó. Chẳng hạnnhư Hoa Kỳ học, châu Au học, châu Phi học...Với cách hiểu này, không gian địa lý vẫn là một tiêu chí quan trọng đểxác định khu vực nhưng quan trọng hơn là không gian đó phải dung chứa một xãhội. Đây là điều then chốt bởi không gian được nghiên cứu không chỉ đơn thuầnlà một không gian địa lý mà phải có sự hiện diện của con người với xã hội vàvăn hóa của họ.1 John Canning, Area Studies: a new hopc regional geography?, Conference "Disciplinary identity of Areastudies” in London, 2004.-9- Liên quan đến cách hiểu trên, có thể dẫn ra cách hiểu về các nền văn minhcủa Fernand Braudel rằng “các nền văn minh là các khoảng không gian”. Theoông “Các nền văn minh, dù tầm vóc của chúng như th ế nào, đều luôn luôn có thểđược khu trú trên bản đổ. Một phần chủ yếu của hiện thực của chủng tùy thuộc vàonhững trói buộc hoặc những lợi th ế của sự khu trú về địa lý"Như vậy, hiện thựcvề một không gian phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố địa lý. Femand Braudel cũngcho ràng có thể hiểu các nền văn minh đó như các khu vực. Đây là một luận điểmquan trọng mà chúng tôi có thể dựa vào để luận giải cho cách quan niệm về khuvực của ông. Bởi các nền văn minh luôn là kết quả của sự sáng tạo và phát triển, ẩnchứa bên trong là chủ thể của nó - con người. Và khi coi các nền văn minh [theocách hiểu trên đây] là các khu vực thì cũng có nghĩa là khu vực đó phải là mộtkhổng gian có chủ thể là con người với những sáng tạo của họ và được xác địnhđầu tiên bởi nhân tố địa lý [phải được khu trú trên bản đồ].Còn theo Yumito Sakurai 2, khu vực học là một bộ môn khoa học nghiêncửu những cảnh quan [hay môi trường] riêng của từng khu vực và cảnh quan đó làbiểu hiện tính đặc trưng của khư vực. Theo ông Sakurai, cảnh quan khu vực là kếtquả của sự kết hợp giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Đây là mộtquan niệm có tính đại diện cho giới Khu vực học Nhật Bản. Nền Khu vực học NhậtBản quan tâm nhiều đến môi trường tự nhiên và sinh thái3. Họ cho rằng, môi trườngtự nhiên là một yếu tố quan trọng nhất để hình thành tính đặc trưng của một khuvực và vì vậy, công việc quan trọng nhất của một nhà khu vực học là tìm hiểu cảnhquan của khu vực mà mình nghiên cứu.Alan Tansman thì cho rằng Khu vực học nghĩa là “những tìm hiểu táo bạođ ể biết, đ ể phản tích, đ ể giải thích các nền văn hoá ngoại bang thông qua nhữnglâng kính liên ngành ” 4. Theo ông, cái gọi là lãng kính liên ngành đó là tối quantrọng vì không một khoa học chuyên ngành nào có thể cho ta một sự hiểu biết đầvđủ về một xã hội hay một nền vãn hoá. Để có được điểu đó, theo ông, trước hết nlìànghiên cứu phải thông qua các bản dịch [bản dịch tác phẩm văn học, thơ ca, lịch1 Femanđ Braudel, Tìm hiểu các nên văn minh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.2 YumiloSakurai, Khu vực học là g ì 9 Bài giảng tại Viện Việt Nam học và Khoa hoc phát triển. Đai họcquốc gia Hà Nội, 2004.3 - Trong Chương trình đào tạo của Trường Sau đại hoc về khu vực Á - Phi [Graduate School of Asian andAírican Area Stidies] có hai Khoa: Khu vực học Đông Nam Á và Khu vực hoc Châu Phi, mỗi Khoa déu cóba bộ môn với những cái tên như: Sinh thái chính tri, Sinh thái văn hóa, Sinh thái lịch sử, Sinh thái và MõiIrường, rồi Môi trường, xã hội và vãn hóa. Dẫn theo: http//:wwww. GSAAAS. edu.jp- Các chủ đề nghiên cứu của nhiểu dự án Nghiên cứu khu vưc cùa người Nhặt đểu có liên quan đến các vấndể sinh thái và mỏi trường tự nhiên.4 Dẫn íhco David L. Szanton, The Origin, Nature and Challenges o f Area studies in the United States, ThePolitics o f Knovvledge: Area Studies and the Disciplines, UC1ASCaliíbrnia International and Area Studies Digital Collection, 2003.- 10-Edited Volume 3, University of sử, các sự kiện xã hội hay văn hoá] để có được những nhận thức đầu tiên về đốitượng nghiên cứu trong thời gian và không gian của nó.Nếu các cách hiểu về khu vực học đã dẫn trước Alan Tansman chủ yếu địnhnghĩa về ngành học này dựa trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu thì cách hiểu củaAlan Tansman lại dựa trên phương pháp tiếp cận để nghiên cứu. Sự lý giải của ôngcho cách quan niệm này, theo chúng tôi, là thuyết phục. Tuy vậy, nếu chỉ thôngqua vãn bản [các bản dịch] thôi thì không đủ bởi hiện thực về một khu vực nhiểukhi có thể bị xuyên tạc hay bóp méo nếu qua cách cảm nhận chủ quan của các nhàthơ, nhà vãn, các học giả, và đôi khi, có thể cả những sử gia.Theo David L. Szanton thì: “hiểu một cách rõ ràng nhất thì khu vực họclà một nhóm gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động học thuật với những đặc điểm chungsau đây: [1] nghiên cứu sâu vê ngôn ngữ; [2] nghiên cứu điền dã sâu sắc bằngtiếng bản địa; [3] nghiên cứu kỹ các sự kiện lịch sử địa phương, các quan điểm, cáctài liệu, các tri thức vê địa phương; [4] kiểm tra, thảo luận, phê phán hay pháttriển các lý thuyết cơ bản dựa trên những quan sát cụ thể; và [5] có những tháoluận liên ngành liên quan đến nhiêu ngành khoa học xã hội và nhân văn ”Đây làmột cách hiểu tương đối cụ thể về khái niệm khu vực học với tất cả những lĩnh vựccủa nó. Định nghĩa trên đây chứa đựng hàng loạt các ý niệm về đối tượng và đặcbiệt là phương pháp nghiên cứu của ngành khoa học này. Điểm [1] và [3] xác địnhđôi tượng nghiên cứu, các điểm còn lại xác định phương pháp nghiên cứu. Mótđiểu quan trọng nữa nên được ghi nhận như là một bước chuyên về mặt nhận thứclà chúng ta không còn nhìn thấy dấu ấn của hệ quy chiếu phương Tây trong quanđiểm này.Theo Vũ Minh Giang “khu vực học là một khoa học liên ngành nghiên cứumột không gian, trong đó có cư dân sinh sống [được gọi là không gian ván hoá]nhằm mục tiêu đi đến một nhận thức tổng hợp về không gian đó”2.Đây là một cách quan niệm đáng chú ý về khu vực học, nó nêu bật được đặctrưng của ngành khoa học này là nghiên cứu “không gian trong đó có cư dán sinhsống”. Chắc chắn rằng khu vực học không nghiên cứu một loại không gian nàothiếu vắng chủ thể là con người.Có thể dễ dàng nhận thấy, bằng cách này hay cách khác, các quan niệm trênđây đểu cho rằng đối tượng nghiên cứu của Khu vực học phải là các không gian,' David L. Szanton, đã dẫn.2 Vũ Minh Giang Phương pliáp ngliién cửu kliu vực, Bài giảng chuyên để Cao hoc tai Khoa Đỏng phươnshọc Trường Đại học KHXH & NV, Đai hoc Quốc gia Hà Nội, 2004. hay các xã hội và các nén văn hóa, hay không gian ván hóa, hay cành quan khuvực... Và điều quan trọng là các loại “không gian” ở đây đều cần có chung mộtđiểm là có chủ nhân - con người - và phải được tri nhận như một tổng thể với sựtồn tại đồng thời của các thiết chế chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo... cúahọ. Tích hợp được điểm chung trên đây, chúng tôi muốn đi đến xác lập một cáchnhìn nhận về khái niệm “khu vực học” cho đề tài này, đó là: Khu vực học lủ mộtngành khoa học nghiên cứu tổng thể về một khu vực có chủ nhân là chủ thể sángtạo va nền răn hóa của khu vực đó.1.1.3. Khái niệm liên ngànhLiên ngành [Inter-disciplinarity hay Inter-disciplinary] là một thuật ngữđược tạo bởi hai từ “inter " và “disciplinarity ” hay “disciplinaryIntel• có nghĩalà “ở giữa” [between] hay “liên k ế t” [connecting]. Chẳng hạn, international lànhững gì thuộc về hai hay nhiêu nước. Tương tự như vậy, disciplinarity là môn họchay là ngành học, chẳng hạn sinh vật, lịch sử, toán, văn học... Và như vậy, interdisciplinarity là sự liên kết các môn học, các ngành. Thông thường, mỗi ngành cómột đối tượng nghiên cứu riêng và thường giải quyết những vấn đề chuyên biệt củangành mình. Tuy nhiên, có những trường hợp để giải quyết một cách trọn vẹn mộtvấn đề nào đó, người ta phải sử dụng kiến thức của nhiều ngành. Hoạt động nhưvậy gọi là liên ngành.Về phương diện lịch sử của khái niệm này, Theo R.J. Ellis, Đại họcNottingham, khái niệm liên ngành, như ý nghĩa chung nhất của nó mà chúng ta vẫnhiểu ngày nay, thực chất đã được nêu ra và bàn đến từ khoảng giữa những nãm1920. Những tài liệu như vậy hiện vẫn được Hội đồng nghiên cứu Khoa học Xã hộiHoa Kỳ [United State’s Social Science Research Council - SSRC] lưu giữ. Các tàiliệu này cho thấy ngay từ thời điểm đó, SSRC đã mong muôn thúc đẩy việc nghiêncứu những vấn đề “liên quan đến không chỉ một ngành”. Có lẽ đây cũng khôngphải là một điều đáng ngạc nhiên vì vào thời gian đó, khoa học xã hội đã khá pháttriển về mặt phạm vi và cần đến sự hợp tác của các học giả từ nhiểu chuyên ngànhkhác nhau. Theo những luận bàn thời đó, liên ngành đã được hiểu như là một cáchtiếp cận trong nghiên cím khoa học xã hội trong đó có sự hợp tác của từ liai ngànhkhoa học trở lênNội dung khái niệm này sau đó cũng được mở rộng nhanhchóng. Margaret Mead 2 năm 1931 gọi đó là sự hợp tác [co-operation], sự ‘§thụtinh chéo" [cross-fertilization] trong khoa học xã hội. Từ những cách hiểu ban đầu1 R. J. Ellis, Interdisciplinarv, Subject Centre for Languages, Linguistics and Area Studies in UnitedKingdom. 2003. w w w .lang.itsn.ac.uk/resources/goodpractise.aspx?resourceid= 1430: Margaret Mead là một nhà nhân học Mỹ nổi tiếng với những nghiên cứu điền dã tại Samoa vào những nam1920, bà thuộc thè hệ các nhà nhân học đầu tiên thực hiện nghiên cứu điển dã và liên ngành đẽ nghiên cứuđời sõng cùa trẻ em nữ đến tuổi trường thành tại đảo Samoa, nam Thái Bình Dương, nám 1925-1926.- 12 - đó, việc sử dụng khái niệm “liên ngành” đã phát triển nhanh chóng và ngày càngtrở nên thông dụng, đặc biệt là trong hơn hai chục nãm cuối thê kỷ 20 vừa qua vànhững năm đầu tiên của thế kỷ 21 này.Có thể tìm hiểu một số cách hiểu về “liên ngành” như sau:Thứ nhất, liên ngành có nghĩa là “một loại hình hợp tác học thuật trong dócác nhà chuyên môn được lấy từ hai hay nhiều chuyên ngành khác nhau cùng làmviệc với nhau đ ể cùng đạt đến những mục tiêu chung trong nhận thức đối tượngnghiên cứu "Thứ hai, một số quan điểm khác cho rằng liên ngành không chỉ là sự liênkết giữa các chuyên gia từ các ngành khác nhau mà có khi còn là việc sử dụngđồng thời ít nhất hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành trở lên 2, các phươngpháp này phải có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và được đặt ngangnhau về vai trò và nhiệm vụ trong việc nhận thức đối tượng nghiên cứu. Vì thế, liênngành ở đây cũng có nhiều mức độ khác nhau và liên quan mật thiết đến nó là khảnâng sử dụng đổng thời nhiều phương pháp đặc thù để đi đến một nhận thức khoahọc chung nhất về đối tượng.Trong giới nghiên cứu khu vực, cách quan niệm về liên ngành chưa hẳn đãthống nhất, cho dù sự khác biệt trong cách dùng thuật ngữ này có thể rất tinh tê \Báo cáo đề dẫn cho Hội thảo Quốc tế Khu vực học Mỹ - Nhật năm 1995 tại Kyotocủa John Campbell có nêu một luận điểm đại ý như sau: các chuyên gia khu vựchọc ở cả hai nước đều thống nhất một cách tự nhiên rằng các quốc gia hay các khuvực mà họ nghiên cứu cần phải được nhận thức bằng cách tiếp cận mang tính tổngthể và toàn diện [holistic approach]. Hơn nữa, do những vấn đề mà thực tiễn nghiêncứu đặt ra, các chuyên gia đều theo một khuynh hướng chung là phải xoá nhoàranh giới của các cách tiếp cận chuyên ngành bằng cách tiếp cận liên ngành. Tuynhiên, đó chỉ là quan điểm chung mang tính hướng đạo. Đi vào cụ thể hơn thì việchiểu nội dung khái niệm liên ngành ở hai quốc gia này không dễ dàng thống nhấtnhư vậy. Ngay trong bản thân giới khoa học của từng nước đã có sự không thốngnhất. Chẳng hạn, ở Mỹ, các nhà nghiên cứu khu vực và các nhà nghiên cứu chuyênngành đã không có được những ý kiến thống nhất. Các nhà khu vực học Mỹ chorằng “liên ngành” ở đây đề cập đến sự áp dụng đổng thời các lý thuyết đã phát triển1 Theo ‘T ừ điển Bách khoa thư Khoa học Xã hội và Nhân vân " [W ikipedia, The free Encyclopedia of Socia!Sciences and Humanities].2Dẵn theo Ellis, R.J. [2003], Interdisciplinarity, Subject Centre for Languages, Linguistics and Area Studiesin United Kingdom. www.lang.itsn.ac.uk/resources/goodpractise.aspx?resourceid=14303 John Campbell, Introduction: Views on Belial'f o f the eaclt delegation, International Area StidiesConíerence I: Japan - USA Area Studies Coníerence, Japan Center for Area Studies, Kyoto. 1995.-13- đẽn độ hoàn hảo từ các khoa học chuyên ngành. Tuy nhiên, các nhà khoa họcchuyên ngành thuần tuý lại không đổng ý như vậy. Họ cho rằng thành quả nghiêncứu của các nhà khu vực học chỉ là một sự đào xới lên những vấn đề lạ lẫm và kỳquặc hơn là việc tận dụng và phát triển các thế mạnh sắc bén của các khoa họcchuyên ngành. Để đáp lại, các nhà khu vực học biện luận rằng bằng việc triển khainghiên cứu trên những địa hình xa lạ, họ đã có những đóng góp quan trọng trongviệc thử nghiệm những lý thuyết vẫn bị xem là kém ứng dụng. Tuy nhiên, những lýthuyết đó là gì thì họ lại không khẳng định được. Tinh hình như vậy ở Mỹ thực rakhông phải là cá biệt. Các nhà khu vực học Nhật Bản thì lại biểu hiện sự hoài nghivề ngay chính bản thân những lý thuyết của ngành khoa học này. Điều này thậmchí bị đẩy đến mức cực đoan khi họ giải thích liên ngành giống như là không cóngành gì cả [interdisciplinary as nondisciplinary]1.Liên ngành trong các nghiên cứu khu vực, theo chúng tôi, không hoàn toàngiống nhau và không theo một mô hình chung duy nhất, nó phụ thuộc rất nhiều vàođối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu ở đây có thể chia thành hai loại vàtương ứng với nó là hai kiểu nghiên cứu liên ngành khác nhau:Loại 1: nghiên cứu để nhận thức và phát hiện ra bản chất hay tính đặc trưngcủa một khu vực. Loại này có thể gọi là nghiên cứu cảnh quan. Tương ứng với loạiđối tượng này là cách tiếp cận liên ngành theo nhóm, tạm gọi là liên ngành kiểu 1.Loại 2: nghiên cứu một vấn đề nào đó của một khu vực. Chẳng hạn,nghiên cứu lịch sử của một làng Nhật Bản, hay nghiên cứu những vấn đề di dânthời hiện đại ở Châu Đại Dương... Đối với các vấn đề kiểu này, các nhà nghiêncứu trước hết phải là người có chuyên môn sâu về một chuyên ngành mà vấn đềnghiên cứu đề cập đến như lịch sử hay xã hội học chảng hạn và họ sẽ nghiêncứu các vấn đề trên bằng phương pháp liên ngành trong khu vực học. Tuy nhiên,cách nghiên cứu này không giống với kiểu 1 mà sẽ có những đặc trưng riêng,tạm gọi là liên ngành kiểu 2.Đối với cả hai loại liên ngành trên, phương pháp nghiên cứu đặc trưng đểu lànghiên cứu trên thực địa [field research, ĩield work] với một yêu cầu tối cao là sựthuần thục tiếng bản địa và phải trải nghiệm trong cuộc sống chung với dân bảnđịa. Cũng có quan niệm cho rằng nhà nghiên cứu không nhất thiêt phải nghiên círutrên thực địa mà có thể nghiên cứu qua văn bản hoặc khảo cứu các loại thư tịch.Thoạt đầu, quan niệm này không có nhiều ý kiên không tán thành, đặc biệt là trongthời kỳ hoàng kim của nền Đóng phương học châu Âu. Tuy nhiên, khu vực học1 Dẵn Theo John Campbell, Introduction: Views on B ehalf o f the each delegalion, International Area StidiesConference I: Japan - USA Area Studies Coníerence, Japan Center for Area Studies, Kyoto, 1995.-14 - càng phát triển, người ta càng đòi hỏi sự trải nghiệm của nhà nghiên cứu tại khuvực họ nghiên cứu.Đó là những vấn đề phương pháp luận chung cho cả hai loại liên ngành trên.Đi vào cụ thể, mỗi loại lại có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn, việc nghiên cứuliên ngành theo nhóm ở loại 1 có một quy trình nghiên cứu đặc trưng mà nghiêncứu khu vực kiểu Nhật Bản là một hình mẫu. Theo quy trình này, phương pháp liênngành thường được thực hiên theo 3 giai đoạn: 1. Đa ngành với các lĩnh vực nghiêncứu độc lập, cho ra kết quả độc lập; 2. Hợp tác các ngành với viêc trao đổi kết quả'và 3. Liên ngành với việc nghiên cứu toàn thể của cả nhóm, tổng hợp kết quả củacác lĩnh vực để phát hiện đặc trưng bản chất của khu vựcLoại 2 thường do cánhân các nhà nghiên cứu thực hiện với đối tượng chung là một vấn đề nào đó củakhu vực. Đặc tính liên ngành của loại này thể hiện ở việc lý giải các sự kiện củakhu vực trên nền tảng tri thức tổng hợp về khu vực đó, trong mối quan hệ với mỏitrường tự nhiên, môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử cũng như trong sự so sánhvới các khu vực khác. Đây là mô hình liên ngành trong nghiên cứu khu vực đặctrưng kiểu Mỹ.Tuy nhiên, liên ngành trong nghiên cứu khu vực cũng đặt ra hàng loạt cácvấn đề phải giải quyết và chúng tôi tin rằng để có thể giải quyết chúng, các nhà khuvực học cũng sẽ phải tốn không ít giấy mực. Đó là những vấn đề chẳng hạn như!cán cân giữa các chuyên ngành trong hoạt động liên ngành sẽ phải như th ế nào?[Ví dụ: các nhà khu vực học Nhật Bản thì có khuynh hướng nghiêng về nhân học,trong khi đó các nhà khu vực học Mỹ lại có khuynh hướng nghiêng về sử học vàkhoa học chính trị... 2]. Rồi, các chuyên ngành có nên được liên kết với nhau mộtcách bình đẳng hay không? Hay, cần phải có tri thức đến đâu về các chuyên ngànhđ ể có thê liên kết chúng lại một cách có hiệu quả?..v.v... Và có lẽ sẽ còn vô sô cácvấn để khác nữa sẽ nảy sinh mà chúng ta, khi mới thực hiện ở những bước đầu, sẽkhông thể hình dung ra hết.Liên quan đến việc định nghĩa thế nào là “liên ngành”, cần phân biệt rõ“liên ngành” với “đa ngành” [Multidisciplinary]. Hai khái niệm song song tồn tạitất yếu phải mang hai nội dung. Tuy nhiên, phân biệt rạch ròi hai nội dung đókhông dễ. Theo R.J.Ellis, sự khác biệt này chủ yếu ở hướng tiếp cận hướng tiếpcận. Tiếp cận đa ngành nhấn mạnh việc sử dụng các phương pháp và quy trình của1 Yumio Sakurai, Khu vực học là g ì 9 Bài giảng chuyên để tại Viện Viêt Nam hoc và Khoa hoc phát triển,Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.: Dản theo: John Campbell, Introduction: \ iews on beliaự o f tlie eacli delegation. Japan-USA Area StudicsConíerence, Tokyo, 1995.-15- nhiêu chuyên ngành khác nhau một cách riêng biệt và độc lập, trong khi đó tiếpcận liên ngành lại tìm cách liên kết, thiết lập những môi quan hệ qua lại, quy địnhvà ảnh hưởng lẫn nhau giữa những hộ phương pháp và quy trình của nhiều chuyênngành khác nhau. Chúng tôi thực sự chia sẻ với quan niệm này bởi nó đưa ra mộtsự phân biệt khá rõ giữa hai khái niệm, hai hướng tiếp cận vốn rất khó phân biệt vàthậm chí nhiều khi bị đồng nhất.1.1.4. Quan điểm tiếp cận toàn diện [Holistic Approach]Theo những gì mà chúng tôi được đọc, ý nghĩa của tiếp cận toàn diện cónguồn gốc từ một thuật ngữ triết học là “tính chỉnh thể”. Tính chỉnh thê này đượcđịnh nghĩa là sự thống nhất bên trong của khách thểTrong lịch sử triết học đãxuất hiện hai xu hướng lý giải khái niệm tính chỉnh thể. Một là xu hướng coi tínhchỉnh thể là sự đầy đủ, bao quát một cách toàn diện tất cả những đặc tính, nhữngmặt và những mối liên hệ của khách thể. Hai là xu hướng coi tính chỉnh thể là tínhchế định nội dung của khách thể, là cái quy định cái đặc thù và cái đơn nhất củanó. Giữa hai xu hướng này, có lẽ xu hướng thứ nhất tỏ ra gần gũi hơn với sản phẩmcủa nó mà chúng tôi đang đề cập đến ở đây là quan điểm tiếp cận toàn diện trongnghiên cứu khu vực.Mục đích của khu vực học là nhằm đạt tới một sự nhận thức tong liợp về cáikhông gian là đối tượng nghiên cứu của nó, trong đó có những nhận thức vể mốiquan hệ mật thiết giữa các lĩnh vực hoạt động của con người như quan hệ qua lạigiữa con người với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái nhân văn. Nhà nghiêncứu khu vực không phải là người duy nhất tập trung sự chú ý vào một khu vực nhấtđịnh. Sinh thái học, địa chất học, sử học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học,ngôn ngữ học... - tất cả những ngành khoa học này, và nhiều khoa học chuycnngành khác nữa - đểu có thể tập trung các mối quan tâm vào khía cạnh này haykhía cạnh khác một khu vực. Tuy nhiên, nghiên cứu khu vực đặc biệt hơn ở chỗ nócó thể sử dụng những khám phá, những kết quả nghiên cứu của những ngành khác,cố gắng kết hợp chúng lại với những dữ kiện và phương pháp của riêng mình để tìmhiểu xem các yếu tố sinh thái, địa chất, lịch sử, xã hội, chính trị, kinh tế, ngônngữ... kia đã tương tác với nhau như thế nào để tạo nên đặc trưng của khu vực ấy.Khu vực học đòi hỏi phải nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện tất cả nhữngđặc trưng của một khu vực như địa hình, địa chất, môi trường, lịch sử hình thành vàphát triển của các cộng đổng cư dân, các đặc điểm về đời sống kinh tế, xã hội, vãnhoá... của họ. Điểu đó có nghĩa là khu vực học là một ngành học toàn dién[holistic], tính toàn diện là đặc điểm trung tâm của ngành học này.1 Từ điên triết học NXB Tiến Bộ Matxcơva, Bản dịch tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung cùa NXB Tiến hòvà NXB Sư thật, 1986, In tại Liên x ỏ .-1 6 -

Video liên quan

Chủ Đề