So sánh điểm tương đồng và khác biệt về nội dung và hình thức giữa tác phẩm được chuyển thể và sách

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNKHOA VĂN HỌC---------------BÀI TẬP TIỂU LUẬNLÝ LUẬN VĂN HỌC SO SÁNH VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC SO SÁNH VÀ ỨNG DỤNG VÀO TÌM HIỂU NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRUYỆN CÂY KHẾ CỦA VIỆT NAM VÀ TRUYỆN XÚC CA TỐ VÀ XÚC CA TÁ CỦA LÀO Học viên : Trần Thị Thanh Huyền Lớp : Cao học Văn học K50Hà Nội -2006PHẦN MỞ DẦUTrên thế giới hiện nay thuật ngữ văn học so sánh đã trở nên rất quen thuộc trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học.Tuy nhiên ở nước ta hiện nay bộ môn văn học so sánh vẫn chưa trở thành 1 môn chính thức ở khoa văn các trường đại học. Có thể nói việc tìm hiểu và xây dựng bộ môn văn học so sánh vẫn còn là một vấn dề thời sự.Tôi hi vọng dù chỉ trong phạm vi một bài tiểu luận nhưng cũng đưa ra được cái nhìn đứng đắn chính xác về văn học so sánh qua liên hệ với một tác phẩm cụ thể.Hơn nữa như chúng ta đã biết văn học dân gian co một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần và trong nền văn học của mỗi dân tộc trên thế giới.Văn học dân gian tồn tại song song và cung cấp chất liệu cho văn học viết.Văn học dân gian nảy sinh từ cuộc sống lao động và đấu tranh của mỗi dân tộc. Nó thể hiện những tình cảm cao quí và đẹp đẽ của người dân, đó là tình cảm của con người với thiên nhiên đát nước, tình cảm của con người với con người trong lao động sản xuất và sinh hoạt. Tình cảm đó được thể hiện qua rát nhiều thể loại: Tiểu thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, sử thi…Nếu như trong sáng tác văn học người ta tối kị sự lặp lại sự bắt chước những lối mòn… thì trong văn học dân gian đó lại là hiện tượng phổ biến làm nên một đặc trưng độc đáo, một phương thức sáng tác đặc thù mang tính loại hình. Sự lặp lại, tương đồng hay bắt chước không phải chỉ ở một dân tộc,một quốc gia riêng mà nhiều khi còn có tính toàn cầu,đối với cả các dân tộc rất xa nhau khó có sự giao lưu về các yếu tố: Nhân vật, cốt truyện, tình tiết trong tác phẩm, số phận nhân vật, tư tưởng chủ đề…Chẳng hạn Ông Ngâu Bà Ngâu [Việt Nam]-Ngưu Lang Chức nữ [ Trung Quốc ]-Kyonu Chiknio [Triều Tiên], Tấm Cám [Việt Nam]-Cô bé lọ lem [Pháp]. Nét đặc trưng này được thể hiện rõ nhất ở thể loại truyện cổ tích. Như chúng ta đẵ biết truyện cổ tích được phân chia làm ba loại:Truyện cổ tích về loài vật [ thường giới thiệu đặc điểm các loài vật và mối quan hệ của các con vật với nhau];Truyện cổ tích về những người thấp cổ bé họng trong xã hội: Người đi ở, mồ côi, con riêng…;Truyện kể về các dũng sĩ, các nhân vật thông minh tài giỏi hay những nhân vật ngốc nghếch. Truyện cố tích Cây khế của Việt Nam và “ Xúc Ca Tố và Xúc Ca Tá” của Lào thuộc thể truyện thứ hai, viết về cuộc đời của những con người thấp cổ bé họng trong xã hội. Cũng đã có một số các công trình nghiên cứu về môtíp người mồ côi trong truyện cổ tích như : “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám” của Đinh Gia Khánh [ Hà Nội NXBVH- 1968] ; “ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” [ Nguyễn Đổng Chi, NXBKHXH,1987,1957 ]. Đề cập đến vấn đề này các nhà nghiên cứu đã ít nhiều sử dụng phương pháp so sánh nhưng mới chỉ tìm hiểu truyện cổ tích nói chung và một số tác phẩm nói riêng. Trên cơ sở những kiến thức được học bộ môn văn học so sánh cũng như nhận thức được tầm quan trong của mảng kiến thức văn học dân gian trong văn học lớp 10 liên quan dến việc giảng dạy văn học cấp ba của tôi nên tôi chọn dề tài này cho bài tiểu luận của mình.Sự so sánh, đối chiếu hai tác phẩm không nhằm mục đích xác định tác phẩm nào có giá trị hơn mà để tìm hiểu so sánh, phân tích về: Nhân vật, kết cấu, cốt truyện, chủ đề tư tưởng…để thấy được nét tương đồng, dị biệt cơ bản trong truyện cổ tích Việt & Lào cũng như nguyên nhân của những điểm dị biệt và tương đồng đó.PHẦN NỘI DUNGI. Vài nét về văn học so sánh.Trước hết ta phải hiểu văn học so sánh là gì? Nó là một bộ môn hay là một phương pháp?Văn học so sánh ban đầu chỉ là một phương pháp. Trong cuộc sống hàng ngày so sánh là một yêu cầu tự nhiên, là một trong những phương pháp để xác định sự vật về mặt định tính, định lượng hoặc ngôi thứ. Còn trong nghiên cứu văn học, nó là một phương pháp dùng để xác định, đánh giá các hiện tượng văn học trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Tức là ban đầu nó chỉ là một phương pháp nghiên cứu văn học, được gọi là phương pháp so sánh.Đến thế kỉ XIX, nó được coi là một bộ môn văn học sử được tiến hành theo phương thức so sánh. Là một bộ môn văn học sử nghiên cứu sự phát triển của văn học nhân loại qua những mốc lịch sử từ đó vẽ ra bức tranh phát triển về mặt lịch đại, đồng đại và chỉ ra quy luật phát triển của văn học, nghiên cứu những đặc điểm chung nhất của văn học nhân loại. Khái niệm “văn học so sánh” gần gũi tuy nhiên không đồng nhất với “văn học thế giới”.Một nhà mĩ học người Rumani [ J.Vianu] đă quan niệm “ văn học thế giới” không phái là tổng số các nền văn học dân tộc. Lịch sử văn học thể giới lựa chọn trong khối lượng đồ sộ các sự kiện của các nền văn học dân tộc để chỉ giữ lại những sự kiện có tầm quan trọng quốc tế trong văn học thế giới và những sự kiện mà với tư cách là người phát, người truyền đạt hoặc người tiếp nhận sự ảnh hưởng, chúng đã đóng một vai trò trong việc hình thành các trào lưu của văn học thế giới.Như vậy là văn học thế giới chỉ quan tâm tới cái quốc tế [ tương ứng với cái chung trong phạm trù cái chung trong triết học]. Giữa văn học thế giới với văn học so sánh có những chỗ giống nhau: phát huy những giá trị tiến bộ chung của các nước khác nhau nhưng văn học so sánh còn có thêm một mục đích cơ bản nữa là chứng minh tính đặc thù của các nền văn học dân tộc. Nó là cầu nối văn học sử dân tộc và văn học thế giới.Với sự ra đời “ Tạp chí lịch sử văn học so sánh” [ 1886] đã khẳng định sự ra đời của bộ môn văn học so sánh.Ngày nay Văn học so sánh ngày càng được xác định là bộ môn khoa học cần thiết nhằm phục vụ trước hết cho văn học sử dân tộc và văn học sử thế giới với hai mục đích cơ bản: xác định tính khái quát khách quan của văn học nhân loại và chứng minh tính đặc thù của các nền văn học dân tộc.Bộ môn văn học so sánh đã đề cập trọn vẹn đến một cặp phạm trù: cái chung – cái riêng. xét về mặt triết học thì cái riêng bao hàm cái chung và cái đặc thù. Tuy nhiên điều phân biệt này chưa quan trọng, quan trọng là phải thấy được sự chuyển hoá lẫn nhau giữa cái đặc thù và cái chung, trong văn học so sánh cũng vậy, phải biết cái đặc thù dân tộc và cái quốc tế là một việc làm cần thiết nhưng tuyệt đối không được coi là mục đích tự thân.Đối tượng nghiên cứu của văn học so sánh trước hết là các mối quan hệ trực tiếp giữa các nền văn học .Mới đầu các nhà so sánh luận ở Châu Âu [ thế kỉ XIX] thường sử dụng phương pháp thực chứng. Họ tiến hành đối chiếu văn bản ,để tìm ra những điểm giống nhau về các mặt: tư tưởng, đề tài, phong cách ,kĩ thuật xây dựng tác phẩm…để xác định các hiện tượng giao lưu văn học một cách thuần tuý thực chứng, thuần tuý sự kiện. Họ không chú ý đến các sự kiện khách quan và chủ quan cụ thể của nhân tố tiếp nhận sự ảnh hưởng, cũng như không phân biệt hiện tượng bị ảnh hưởng thụ động với hiện tượng vay mượn chủ động. Đến cuối những năm 60, sự tiến bộ của văn học so sánh được đánh dấu bằng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các chuyên gia so sánh XHCN và phương Tây, chủ trương mở rộng phạm vi nghiên cứu văn học so sánh ra cả về mặt không gian, thời gian. Văn học so sánh không chỉ nghiên cứu các quan hệ văn học quốc tế trực tiếp mà còn đề cập đến cả những điểm giống nhau về loại hình giữa các nền văn học do đặc điểm lịch sử xã hội giống nhau đẻ ra, chứ không phải do ảnh hưởng giữa chúng với nhau. Các công trình nghiên cứu hiện tượng tương đồng đã cho chúng ta thấy rằng co hai loại hiện tượng tương đồng: tương đồng lịch sử bao gồm hiện tượng tương đồng cùng thời, tương đồng kế tiếp và tương đồng phi lịch sử. Loại tương đồng lịch sử là tương đồng của những trào lưu thuộc các nền văn học kế cận nhau như các trào lưu thời Phục hưng, cổ điển… ở Châu Âu và phương Tây. Còn loại hình tương đồng phi lịch sử là sự giống nhau giữa các nền văn học cách xa nhau về không gian và thời gian. Qua việc nghiên cứu sự giống nhau phi lịch sử này các nhà nghiên cứu so sánh sẽ cung cấp tư liệu cho các nhà lí luận văn học để họ rút ra những kết luận bổ ích và xác đáng về qui luật phát triển chung của văn học. Đồng thời việc nghiên cứu hiện tượng tương đồng phi lịch sử cũng làm sáng tỏ sự phát sinh, phát triển của một thể loại, một loại hình văn học cụ thể qua đó góp cho các nhà lí luận văn học rút ra những kết luận về thể loại hay loại hình học.Việc nghiên cứu hiện tượng tương đồng giữa các nền văn học cũng cung cấp tư liệu và gợi ý hướng dẫn cho các nhà viết sử văn học dân tộc, cho các nhà phê bình và lí luận để họ khái quát nên những nhận xét và luận điểm về các vấn đề văn học sử dân tộc hoặc lí luận văn học.Dựa vào kết quả nghiên cứu của văn học so sánh, các nhà phê bình và lí luận sẽ có những đánh giá chính xác hơn, tránh sa vào quan điểm phiến diện sôvanh. cũng như tránh sa vào lôí phê bình thuần tuý xa rời thực tế. Đối tượng nghiên cứu thứ ba của văn học so sánh là các điểm khác biệt độc lập. Việc so sánh các điểm khác biệt, độc lập không phải là mục đích tự thân, không phải chỉ để chứng minh đơn thuần cái này khác cái kia mà nó nhằm phục vụ những mục tiêu rất cụ thể của nhà nghiên cứu. đối tượng này là đối tượng bổ sung cho hai đối tượng đầu làm cho văn học so sánh trở thành bộ môn hoàn chỉnh và hữu hiệu. CHƯƠNG I: SƠ KHẢO NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” [CÙ HỰU] VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” [NGUYỄN DỮ].I. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GỮA “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”.Trong văn xuôi Việt Nam thời Trung đại, “Truyền kì mạn lục” là tác phẩm có giá trị lớn. Tác phẩm đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà phê bình trên nhiều khía cạnh, phương diện. Đã có nhiều công trình khám phá các vấn đề chính các tác phẩm như: Số phận người phụ nữ về những motip dân gian,… Vài thập niên gần đây, cùng với sự phát triển của lí luận văn học so sánh, các nhà nghiên cứu tiến hành tìm hiểu “Truyền kì mạn lục” trong mối quan hệ với các tác phẩm khác, đặc biệt lưu tâm tới sự gần gũi giữa “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu.Ngay từ khi tác phẩm mới ra đời, ác học giả thời trung đại đã ý thức được sự tương đồng ở một mức độ nào đó giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”. Trong lời tựa “Truyền kì mạn lục” viết năm Vĩnh Định sở niên [1547], Hà Thiện Hán khẳng định: “Xem văn từ của sách thấy không ra khỏi yêu giận của Tông Cát? Lê Quý Đôn trong “Văn nghệ chí” phần truyền kỳ ở “Đại Việt thông sử” cũng cho rằng: “Về đại thể phỏng theo tập Tiễn đăng của nhà nho đờiNguyễn”. Lời ghi của Phan Huy Chú trong “Văn tịch chí” cũng thống nhắt với các ý kiến trên phê rằng “Sách “Truyền kì mạn lục” đại lược bắt chước [hiệu] cuốn “Tiễn đăng tân thoại” của nhà Nho đời nhưng”.Mặc dù chỉ ra Nguyễn Dữ “phỏng theo” “bắt chước” “Tiễn đăng tân thoại” nhưng các học giả thời trung đại không có ý coi trm là tác phẩm sao chép, cảibiên, càng không phải là cái bóng của nguyên mẫu. Họ đánh giá cao sức sáng tạo của Nguyễn Dữ, coi tác phẩm là “trứ tác” đặc sắc [Lê Quý Đôn] và là ông “thiện cổ kì bút” [Vũ Phương Đề].

Video liên quan

Chủ Đề