Sự khác nhau giữa nhóm và đám đông

NộI Dung:

  • Hình minh họa đám đông
  • Bầy đàn

    Một đám đông là một nhóm lớn người được tập hợp hoặc được xem xét cùng nhau. Một đám đông có thể được xác định thông qua một mục đích hoặc tập hợp cảm xúc chung, chẳng hạn như tại một cuộc biểu tình chính trị, một sự kiện thể thao hoặc trong khi cướp bóc [đây được gọi là một đám đông tâm lý], hoặc có thể chỉ đơn giản là bao gồm nhiều người đi về kinh doanh khu sầm uất. Thuật ngữ "đám đông" đôi khi có thể ám chỉ các mệnh lệnh thấp hơn của mọi người nói chung.

Wikipedia
  • Nhóm [danh từ]

    Một số sự vật hoặc con người có mối quan hệ với nhau.

    "có một nhóm nhà phía sau ngọn đồi;"

    "anh ấy rời thị trấn để tham gia một nhóm Cộng sản"

    "Một nhóm người đã tụ tập trước Nghị viện để phản đối các đề xuất của Thủ tướng."

  • Nhóm [danh từ]

    Một tập hợp với một phép toán nhị phân kết hợp, trong đó tồn tại một phần tử đồng nhất và sao cho mỗi phần tử có một nghịch đảo.

  • Nhóm [danh từ]

    Một ước số hiệu quả trên một đường cong.

  • Nhóm [danh từ]

    Một nhóm [thường là nhỏ] gồm những người biểu diễn âm nhạc cùng nhau.

    "Bạn có thấy nhóm nhạc jazz mới không?"

  • Nhóm [danh từ]

    Một số nhỏ [lên đến khoảng năm mươi] thiên hà ở gần nhau.

  • Nhóm [danh từ]

    Một cột trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học.

  • Nhóm [danh từ]

    Một nhóm chức năng.

    "Nitro là một nhóm rút electron."

  • Nhóm [danh từ]

    Một tập hợp con của một nền văn hóa hoặc của một xã hội.

  • Nhóm [danh từ]

    Một đội hình không quân.

  • Nhóm [danh từ]

    Tập hợp các thành tạo hoặc địa tầng đá.

  • Nhóm [danh từ]

    Một số người dùng có cùng quyền đối với việc truy cập, sửa đổi và thực thi tệp, máy tính và thiết bị ngoại vi.

  • Nhóm [danh từ]

    Một bộ phận của máy pha cà phê espresso mà từ đó nước nóng đổ vào bộ lọc portafilter.

  • Nhóm [danh từ]

    Một số nốt thứ tám, mười sáu, v.v., nối ở thân cây; đôi khi áp dụng vô thời hạn cho bất kỳ vật trang trí nào được tạo thành từ một vài ghi chú ngắn.

  • Nhóm [danh từ]

    Một tập hợp các đội chơi với nhau trong cùng một bộ phận, trong khi không chơi cùng một thời gian với bất kỳ đội nào thuộc các bộ khác trong phân chia.

  • Nhóm [danh từ]

    Một tổ chức thương mại.

  • Nhóm [động từ]

    Để kết hợp với nhau để tạo thành một nhóm.

    "nhóm những con chó theo màu lông"

  • Nhóm [động từ]

    Để đến với nhau để thành lập một nhóm.

  • Đám đông [động từ]

    Để nhấn về phía trước; để thăng tiến bằng cách thúc đẩy.

    "Người đàn ông chen chúc trong căn phòng đã đóng gói."

  • Đám đông [động từ]

    Để nhấn cùng nhau hoặc thu thập theo số

    "Họ chen chúc qua cổng tò vò và vào công viên."

    "bầy đàn | đám đông | đám đông trong"

  • Đám đông [động từ]

    Để nhấn hoặc lái xe cùng nhau, đặc biệt là vào một không gian nhỏ; nhồi nhét.

    "Anh ta cố gắng dồn quá nhiều bò vào chuồng bò."

  • Đám đông [động từ]

    Để lấp đầy bằng cách nhấn hoặc dồn vào nhau

  • Đám đông [động từ]

    Đẩy, nhấn, xô.

    "Họ cố gắng ngăn cô ấy ra khỏi vỉa hè."

  • Đám đông [động từ]

    Tiếp cận tàu khác quá gần khi nó có đường.

  • Đám đông [động từ]

    Mang theo buồm quá mức với hy vọng di chuyển nhanh hơn.

  • Đám đông [động từ]

    Để nhấn bằng cách chào mời; Đôn đốc; dun; do đó, để đối xử một cách gian dối hoặc không hợp lý.

  • Đám đông [động từ]

    Để chơi trên một đám đông; lãng phí.

  • Đám đông [danh từ]

    Một nhóm người tụ tập hoặc tập hợp thành một cơ quan gần gũi mà không có trật tự.

    "Sau khi bộ phim phát sóng, một đám đông người đã đẩy qua cửa thoát hiểm."

  • Đám đông [danh từ]

    Một số thứ được thu thập hoặc ép chặt lại với nhau; ngoài ra, một số thứ liền kề nhau.

    "Có một đám đông đồ chơi được đẩy bên dưới chiếc ghế dài nơi bọn trẻ đang chơi."

  • Đám đông [danh từ]

    Cái gọi là mệnh lệnh thấp hơn của con người; quần chúng, thô tục.

  • Đám đông [danh từ]

    Một nhóm người đoàn kết hoặc ít nhất được đặc trưng bởi một lợi ích chung.

    "Người hâm mộ của tác giả khó hiểu đó là một đám đông mọt sách hiếm khi tương tác trước thời đại Internet."

  • Đám đông [danh từ]

    hình thức thay thế của crwth

  • Đám đông [danh từ]

    Một trò đùa.

từ điển mở
  • Nhóm [danh từ]

    Một cụm, đám đông, hoặc đám đông; một tập hợp, người hoặc vật, được thu thập mà không có bất kỳ hình thức hoặc sắp xếp thông thường nào; như, một nhóm đàn ông hoặc cây cối; một nhóm các đảo.

  • Nhóm [danh từ]

    Một tập hợp các đối tượng theo một trật tự hoặc mối quan hệ nhất định, hoặc có một số điểm tương đồng hoặc đặc điểm chung; như, các nhóm tầng lớp.

  • Nhóm [danh từ]

    Một tập hợp động vật hoặc thực vật có giới hạn khác nhau, có một số điểm giống nhau hoặc các đặc điểm chung về hình thức hoặc cấu trúc. Thuật ngữ này có các cách sử dụng khác nhau và có thể được dùng để bao gồm một số loài nhất định của một chi, hoặc toàn bộ chi, hoặc một số chi nhất định, hoặc thậm chí một số bộ.

  • Nhóm [danh từ]

    Một số nốt thứ tám, mười sáu, v.v., nối ở thân cây; - đôi khi áp dụng vô thời hạn cho bất kỳ vật trang trí nào được tạo thành từ một vài ghi chú ngắn.

  • Nhóm

    Để tạo thành một nhóm; để sắp xếp hoặc kết hợp trong một nhóm hoặc trong các nhóm, thường liên quan đến mối quan hệ tương hỗ và hiệu quả tốt nhất; để tạo thành một tập hợp của.

  • Bầy đàn

    Đẩy, nhấn, xô.

  • Bầy đàn

    Để nhấn hoặc lái xe cùng nhau; để khối lượng với nhau.

  • Bầy đàn

    Để lấp đầy bằng cách nhấn hoặc dồn vào nhau; do đó, để mã hóa bởi quá số lượng hoặc số lượng.

  • Bầy đàn

    Để nhấn bằng cách chào mời; Đôn đốc; dun; do đó, để đối xử một cách gian dối hoặc không hợp lý.

  • Bầy đàn

    Để chơi trên một đám đông; lãng phí.

  • Đám đông [động từ]

    Để nhấn cùng nhau hoặc thu thập trong số; bầy đàn; đông đúc.

  • Đám đông [động từ]

    Để thúc giục hoặc nhấn chuyển tiếp; ép buộc bản thân của một người; như, một người đàn ông chen chúc vào một căn phòng.

  • Đám đông [danh từ]

    Một số điều được thu thập hoặc ép chặt vào nhau; ngoài ra, một số thứ liền kề nhau.

  • Đám đông [danh từ]

    Một số người tụ tập hoặc tập hợp vào một cơ quan thân cận mà không có trật tự; một đám đông.

  • Đám đông [danh từ]

    Các đơn đặt hàng thấp hơn của người dân; quần chúng; thô tục; kẻ dại dột; đám đông.

  • Đám đông [danh từ]

    Một loại nhạc cụ cổ có sáu dây; một loại vĩ cầm, là nhạc cụ dây lâu đời nhất được biết đến chơi bằng cung.

Từ điển Webster
  • Nhóm [danh từ]

    bất kỳ số lượng thực thể [thành viên] nào được coi là một đơn vị

  • Nhóm [danh từ]

    [hóa học] hai hoặc nhiều nguyên tử liên kết với nhau như một đơn vị duy nhất và tạo thành một phần của phân tử

  • Nhóm [danh từ]

    một tập hợp đóng, liên kết, có một phần tử đồng nhất và mọi phần tử đều có một nghịch đảo

  • Nhóm [động từ]

    sắp xếp thành một nhóm hoặc các nhóm;

    "Bạn có thể nhóm những hình dạng này lại với nhau không?"

  • Nhóm [động từ]

    thành lập một nhóm hoặc nhóm cùng nhau

  • Đám đông [danh từ]

    một số lượng lớn những thứ hoặc những người được xem xét cùng nhau;

    "một đám côn trùng tụ tập quanh những bông hoa"

  • Đám đông [danh từ]

    một cơ quan thân mật của bạn bè;

    "anh ấy vẫn đi chơi với cùng một đám đông"

  • Đám đông [động từ]

    gây ra bầy đàn, lái xe hoặc đám đông với nhau;

    "Chúng tôi đưa lũ trẻ vào một lớp học rảnh rỗi"

  • Đám đông [động từ]

    lấp đầy hoặc chiếm dụng đến mức tràn;

    "Sinh viên chật kín khán phòng"

  • Đám đông [động từ]

    để tụ tập với nhau với số lượng lớn;

    "những người đàn ông lái thuyền rơm và bộ ria mép phủ đầy sáp ở hiên"

  • Đám đông [động từ]

    tiếp cận một độ tuổi hoặc tốc độ nhất định;

    "Cô ấy đang đẩy năm mươi"

Princeton’s WordNet

Đám đông là gì?

Đám đônglà mộtnhómlớnnhững ngườiđược tập hợp hoặc được xem xét cùng với nhau. Một đám đông có thể được xác định thông qua một mục đích chung hoặc một bộ cảm xúc, chẳng hạn như tại mộtcuộc biểu tình chính trị, mộtsự kiện thể thaohoặc trong khicướp bóc[điều này được gọi là đám đông tâm lý], hoặc đơn giản có thể được tạo thành từ nhiều người đi về kinh doanh trong một khu vực bận rộn. Thuật ngữ "đám đông" đôi khi có thể nói đến các mệnh lệnh thấp hơn của mọi người nói chung.

So sánh nhóm và đám đông

Nhiều người thường nhầm lẫn giữa nhóm người và đám đông. Về bản chất và mục đích, hai tập hợp người trên hoàn toàn khác nhau.

- Đám đông:

+ Không có sự thống nhất về mặt tư tưởng

+ Mang tính cá nhân

+ Tự do hoạt động, không ràng buộc

+ Có thể chung mục đích

+ Mang tính nhất thời

+ Không có mối quan hệ bền chặt bên trong

- Nhóm:

+ Cùng theo đuổi một triết lí, quan niệm

+ Cùng nhau giải quyết vấn đề, cùng hợp tác, hỗ trợ

+ Đồng nhất trong cách làm việc

+ Hướng đến mục đích chung, sứ mệnh chung

+ Hướng đến sự phát triển lâu dài

+ Có mối quan hệ hữu cơ
Nguyên nhân của hiệu ứng đám đông [vì sao con người có xu hướng chạy theo đám đông]

Mỗi người chứa đựng sẵn trong mình phản xạ mang tính bầy đàn. Khi xuất hiện hành vi mang khuynh hướng cộng đồng, những người thiếu hiểu biết hay không có chính kiến dễ dàng sa lưới và a dua theo trào lưu. Họ tin rằng, đám đông luôn đúng. Sự lựa chọn và hành vi của đám đông thường xuất phát từ một lí do vô cùng xác đáng nào đó. Và rồi, định nghĩa "đám đông luôn có cái lí của đám đông" ra đời.

Hơn nữa, nếu bản thân người chạy theo xu hướng đám đông không thu được lợi cho mình thì họ vẫn không bị gắn mác là "kẻ ngu dốt, lạc hậu", giảm bớt rủi ro về mặt tâm lí và không chịu sự đả kích hay trừng phạt của đám đông

Tâm lí đám đông – con dao hai lưỡi

Sức mạnh của hiệu ứng đám đông

Khi đám đông được tập hợp theo mục đích tốt đẹp nào đó, ắt sẽ tạo ra sức mạnh khổng lồ. Có những người không ham hố đọc sách, nhưng thấy một người đọc, thấy nhiều người đọc nên cũng đọc theo, từ đó dẫn đến sự thay đổi về nhận thức. Trong học tập, thấy đa số các bạn học bài nên bản thân cũng vô thức mà bắt chước theo. Hay, thấy nhiều người quyên góp ủng hộ đồng bào lũ lụt, bạn cũng góp chút ít công sức.
Sức mạnh ấy đã được chứng minh qua lịch sử Thế giới, tiêu biểu là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hay, sự ra đời của kì quan vĩ đại như Vạn Lí Trường Thành, Kim Tự Tháp.. cũng thể hiện vai trò quan trọng của hiệu ứng đám đông.

Trong kinh doanh, nhờ việc tận dụng hiệu ứng đám đông mà nhà kinh doanh, chủ sản xuất thu được lợi nhuận cao. Áp dụng mua 1 tặng 1 hay giảm giá 10, 20% thu hút sự chú ý của một số người và rồi nhiều người đến mua hàng hơn. Điều đó đã tạo cho lợi nhuận lớn cho nhiều nhà kinh doanh

Mặt trái của hiệu ứng đám đông.

- Khiến cá nhân không phát huy tư duy phản biện, tính sáng tạo. Hiệu ứng đám đông đã tạo ra lối mòn, định kiến làm đứt gãy và thui chột những điều mới mẻ. Tiêu biểu là Galile chỉ vì phát hiện ra "Trái đất quay xung quanh mặt trời" mà phải chịu sự áp bức của quyền lực tôn giáo thời Trung cổ.

- Đám đông với đặc điểm nhẹ dạ, cả tin, đầy quyền lực, họ tự cho mình quyền có thể trừng phạt người khác nếu làm trái mắt họ. Điều này tạo ra vô vàn tội ác khi bản thân con người không thể xem xét vấn đề, không phân biệt được đâu là đúng đâu là sai. Chỉ cần một người lên tiếng mách bảo hành vi ấy là trái với luân thường đạo lí, đám đông sẽ cùng nhau công kích, xúc phạm con người ấy, hành vi đó.- Là nguồn cơn dẫn đến các vụ tự sát, những cuộc thảm sát kinh hoàng của nhân loại. Hiler là ví dụ tiêu biểu. Chịu ảnh hưởng từ bố và những người xung quanh, Hitler nuôi hận thù với người Do Thái. Hắn tác động đến đám đông và từ đó gây ra nạn diệt chủng.

- Người người bắt chước nhau sử dụng chất độc hại chỉ vì muốn tăng lợi nhuận dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, tỉ lệ người mắc bệnh tăng cao.

Làm thế nào để không bị tâm lí đám đông dẫn dắt?

"Nếu đi theo đám đông, bạn sẽ khó mà đi xa hơn được đám đông. Nếu đi một mình, bạn có thể đặt chân đến những nơi mà chưa ai từng đến được." [Alan Ashley-Pitt]. Điều cốt yếu là xác định được mục tiêu của mình, làm chủ bản thân, không để mình bị chi phối bởi hành vi bầy đàn. Hơn nữa, mỗi người cần bứt phá, sáng tạo con đường đi mới, tránh nép mình vào định kiến, lối mòn

Một số hội chứng liên quan đến tâm lí đám đông

Hội chứng rạp hát:Khi kết thúc buổi biểu diễn, vì lí do nào đó mà bạn thấy bài hát đó, vở kịch đó không hay, phân vân chưa xác định được có nên tán thưởng hay không. Nhưng, xung quanh, mọi người vỗ tay rầm rỗ, và bạn cũng vỗ tay theo. Điều này giảm bớt rủi ro tâm lí, khiến bạn đỡ xấu hổ vì thiếu lịch sự hay kém hiểu biết hơn người khác.

Hội chứng lây lan[thể hiện qua câu chuyện chiếc mũ đã đề cập ở trên]

Hiệu ứng bầy cừu:Nói ngắn gọn là hành vi tâm lí của bầy cừu giống hệt nhau. Hiệu ứng bắt nguồn từ câu chuyện Panurge. Panurge là một người lái buôn tràn trề kinh nghiệm, vì có xích mích với người lái buôn trước đó nên anh ta quyết định trả thù. Mua một con cừu và vứt nó xuống biển, đàn cừu thấy vậy thì cùng nắm tay nhau chìm xuống biển khơi. Người đăng: chiu Time: 2021-10-29 17:20:59

Mục lục

Các khía cạnh xã hộiSửa đổi

Các khía cạnh xã hội quan tâm đến việc hình thành, quản lý và kiểm soát đám đông, cả từ quan điểm của các cá nhân và các nhóm. Thông thường kiểm soát đám đông được thiết kế để thuyết phục đám đông phù hợp với một quan điểm cụ thể [ví dụ: các cuộc biểu tình chính trị] hoặc để chứa các nhóm để ngăn chặn thiệt hại hoặc hành vi mob. Kiểm soát đám đông có tổ chức chính trị thường được thực hiện bởi cơ quan thực thi pháp luật nhưng trong một số trường hợp, các lực lượng quân sự được sử dụng cho đám đông đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm.

Khía cạnh tâm lýSửa đổi

Bài chi tiết: Tâm lý học đám đông

Các khía cạnh tâm lý quan tâm đến tâm lý của đám đông như một nhóm và tâm lý của những người cho phép ý chí và cảm xúc của họ được đám đông thông báo [cả hai phần này được thảo luận toàn diện hơn tại tâm lý đám đông].

Nhiều nghiên cứu về đám đông đã đưa ra những hiểu biết về cách đám đông phản ứng với các tình huống khác nhau. Một báo cáo năm 2009 nhấn mạnh nhiều hành vi có thể quan sát được của đám đông,[1] bao gồm bằng chứng cho thấy đám đông có thể đưa ra quyết định thống nhất về hướng và tốc độ di chuyển của họ, ngay cả khi chỉ một vài thành viên của nó có thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đó. Mức độ mà các thành viên được thông báo có thể ảnh hưởng đến đám đông phụ thuộc vào vị trí của họ trong nhóm, với những người trong nhóm có khả năng có ảnh hưởng lớn hơn.

Thông thường, các nhà nghiên cứu về tâm lý học đám đông đã tập trung vào các khía cạnh tiêu cực của đám đông,[2] nhưng không phải tất cả các đám đông đều dễ bay hơi hoặc tiêu cực trong tự nhiên. Chẳng hạn, vào đầu phong trào xã hội chủ nghĩa, đám đông được yêu cầu mặc trang phục chủ nhật và diễu hành lặng lẽ xuống phố. Một ví dụ hiện đại hơn liên quan đến các sit-in trong Phong trào Dân quyền. Đám đông có thể phản ánh và thách thức các ý thức hệ được tổ chức của môi trường văn hóa xã hội của họ. Họ cũng có thể phục vụ các chức năng xã hội tích hợp, tạo ra các cộng đồng tạm thời.[2][3]

TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI

Những vấn đề được trình bày trong chương 4 sẽ giúp cho sinh viên có sự hiểu biết hơn về sự tồn tại của các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội và sự ảnh hưởng của chúng đối với các cá nhân cũng như toàn thể xã hội. » Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • luật học
  • tài liệu học luật
  • lý thuyết luật
  • giáo trình ngành luật
  • bài giảng ngành luật
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI Những vấn đề được trình bày trong chương 4 sẽ giúp cho sinh viên có sự hiểu biết hơn về sự tồn tại của các nhóm xã hội, cộng đồng xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội và sự ảnh hưởng của chúng đối với các cá nhân cũng như toàn thể xã hội. Đồng thời, với những kiến thức được cung cấp, sinh viên sẽ phân biệt biệt sự khác nhau giữa các phạm trù. 4.1. NHÓM XÃ HỘI 4.1.1. Khái niệm: Nhóm xã hội là một phạm trù nghiên cứu quan trọng của xã hội học, bởi vì, các mối quan hệ giữa các cá nhân trong thực tế chính là quan hệ giữa các nhóm xã hội. Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được gắn vào nhóm theo nhiều cách thức đa dạng và trong thực tiễn xã hội, chúng ta tin tưởng vào các quyết định của nhóm hơn là những quyết định cá nhân. [Erich H. Witte/Elisabeth Ardelt:303]
  2. Nhóm được định nghĩa như sau:: - Nhóm xã hội là một tập hợp người liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu, lợi ích và những định hướng giá trị nhất định. Khi tham gia vào nhóm, cá nhân thiết lập những liên hệ xã hội của mình với các cá nhân khác và với tập thể. Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau theo cách, mỗi người đều gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi người khác về quan điểm, giá trị, chuẩn mực.... Mỗi cá nhân gắn bó với nhóm thể hiện qua việc tiếp nhận những đặc tr ưng cơ bản như lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực, giá trị....Những đặc trưng của nhóm sẽ giúp cá nhân ý thức được những đặc điểm chung nhất định với những thành viên khác của nhóm, tức là có được cảm giác "chúng ta". Đây là điểm để phân biệt nhóm n ày với nhóm khác và là một chỉ báo đặc trưng về sự gắn bó chặt chẽ với một nhóm xã hội nào đó của cá nhân. Do đó, nhóm xã hội luôn có mối liên hệ hữu cơ bên trong, những liên hệ trên cơ sở những lợi ích, đòi hỏi phải cùng cộng tác và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. Khi tìm hiểu về nhóm, chúng ta cần phân biệt nhóm xã hội với đám đông. Điểm giống nhau giữa nhóm xã hội và đám đông là, cùng là một tập hợp người nhất định, liên hệ với nhau theo một cách nào đó nhưng đám đông chỉ là một tập hợp người ngẫu nhiên, đơn thuần, không có mối liên hệ nào bên trong.
  3. 4.1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhóm: Đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm. Bên cạnh đó, còn có thể kể đến những đặc trưng sau: - Tư cách thành viên: tuỳ các nhóm khác nhau mà có quy định khác nhau hoặc các nhóm khác nhau có thể có những quy định giống nhau [nh ư về giới, nghề nghiệp, tuổi tác]... - Địa vị: là vị trí của các thành viên trong nhóm. Trong cơ cấu của đa số các nhóm, thường có thủ lĩnh và các thành viên. - Vai trò: những ứng xử gắn liền với địa vị của mỗi thành viên trong nhóm. - Giá trị, mục tiêu mà nhóm theo đuổi: Liên quan đến lợi ích và sự hoàn thành công việc của nhóm. - Chuẩn mực: những quy tắc ứng xử trong nhóm, bắt buộc mọi thành viên phải tuân theo. - Chế tài: bao gồm khen thưởng [nếu tuân thủ tốt] và sự trừng phạt mang tính cưỡng chế. 4.1.3. Phân loại nhóm:
  4. Có rất nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại nhóm, thông thường, người ta hay đề cập đến các tiêu chí sau: a. Căn cứ vào số lượng thành viên tham gia: Nhóm nhỏ: là một tập hợp ít người. Ví dụ: nhóm gia đình, nhóm bạn bè, lớp học, đội thể thao, đội sản xuất, phòng ban nơi làm việc.... Nhóm lớn: là tập hợp đông người. Ví dụ: nhóm dân tộc, giai cấp, đảng phái chính trị, tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội.... b. Căn cứ vào tính chất liên kết trong nhóm: Nhóm sơ cấp: các thành viên có quan hệ trực diện, gần gũi với nhau theo huyết thống, tình cảm, sở thích. Ví dụ: gia đình, họ hàng, các nhóm theo sở thích như bạn bè, câu lạc bộ.... Nhóm thứ cấp: có số lượng thành viên lớn, quan hệ với nhau một cách gián tiếp bởi các quy định, điều lệ chung do nhóm đặt ra. Ví dụ: các đo àn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ, các tập đoàn kinh tế lớn... c. Căn cứ vào hình thức biểu hiện mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm:
  5. Nhóm chính thức: là nhóm có cơ chế vận hành thông qua luật pháp và các sơ đồ, kế hoạch. Hoạt động của các thành viên và vai trò cá nhân được xác định thông qua những điều lệ và quy tắc nhất định. Nhóm không chính thức: được hình thành từ các quan hệ tự phát, các thành viên của nhóm có thủ lĩnh riêng và quan hệ theo những luật lệ không thành văn nhưng được họ tán đồng, tự nguyện và trung thành.. d. Căn cứ vào cách thức gia nhập nhóm: Nhóm tự nguyện và nhóm áp đặt. Nhóm tự phát và nhóm có tổ chức. Mỗi loại nhóm đều có cơ cấu riêng với những nội dung của nó. Trong đó có sự phân công về chức năng, thứ bậc, mức độ tương tác... Đặc điểm chung của cơ cấu tất cả các nhóm là bao giờ cũng phải có thủ lĩnh, được xác định bởi uy tín của cá nhân đối với nhóm. 4.2. CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI: 4.2.1. Khái niệm: Cộng đồng xã hội là một khái niệm hết sức quan trọng trong xã hội học cũng như trong các khoa học xã hội và nhân văn khác. Nghiên cứu phạm trù này không
  6. những có thể nhận thức, nghiên cứu xã hội một cách khoa học mà còn góp phần tác động, điều chỉnh và cải biến xã hội đi theo chiều hướng tiến bộ, văn minh. Cộng đồng xã hội có thể hiểu theo một số cách sau: - Cộng đồng xã hội là kiểu tổ chức xã hội, được hình thành trong một quá trình lịch sử lâu đời, dựa trên cơ sở của sự thống nhất - cố kết giữa các cá nhân, nhóm với nhau về mặt lợi ích, quyền lợi, nghĩa vụ, giá trị, chuẩn mực. Cùng sản xuất, sinh hoạt, tồn tại và phát triển trên một phạm vi địa lý - văn hoá nhất định. - "Cộng đồng xã hội là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết được chính họ tìm kiếm và vì thế, được con người cảm thấy có tính cội nguồn. Sự thành lập cộng đồng không xuất phát từ các tính toán lợi ích có tính riêng lẻ và được thoả thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về tinh thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế, thường có ưu thế về giá trị" [Robert Hettlage, Từ điển Xã hội học 2002:98] - Cộng đồng xã hội là tập hợp dân cư sinh sống trên cùng một lãnh thổ, do vậy, họ thường có một ý thức - tình cảm về sự thống nhất trong một địa ph ương và một khả năng tham gia những hoạt động mang tính tập thể vì quyền lợi của địa phương đó.
  7. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về cộng đồng nh ưng trong đó, đều chứa đựng ba ý nghĩa. Đầu tiên, đó là các "cộng đồng như là một địa vực", ở đó, sự định cư của một nhóm người bên trong một lãnh thổ được xác định. Đây là cách giải thích gắn với các yếu tố địa lý. Thứ hai, cộng đồng được hiểu như một "mạng lưới các tương quan". Trong cách hiểu này, các quan hệ cộng đồng có cả các đặc tính xung đột đan xen hoặc thay thế đặc tính cơ bản của nó là tương trợ và đoàn kết. Trong cách sử dụng thứ ba, cộng đồng được coi là một kiểu loại riêng biệt của mối quan hệ xã hội với những tổ chức nhất định như tinh thần cộng đồng, tình cảm cộng đồng, ý thức cộng đồng. [Lê Tiêu La - Nguyễn Đình Tấn, Phân công và hợp tác lao động theo giới...2005:26] Khái niệm cộng đồng có thể góp phần đề cao bản sắc riêng của từng địa phương, đồng thời, cũng có thể tạo ra xu h ướng cục bộ, địa phương chủ nghĩa trong đời sống và quản lý xã hội. 4.2.2. Đặc trưng của cộng đồng xã hội: - Cộng đồng xã hội thể hiện mối liên hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của họ, nhờ sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt động của các cá nhân hợp thành cộng đồng đó, nhờ sự giống nhau giữa họ về quan điểm - tín ngưỡng - các quan niệm về cuộc sống và xã hội nói chung [V.A.Jađốp].
  8. Ví dụ: về Sắc tộc, lý tưởng hay hệ giá trị cơ bản, địa lý, văn hoá, tín ngưỡng, kinh tế.... - Các thành viên trong cộng đồng gắn bó với nhau không phải bằng các luật pháp thành văn mà là sự liên kết các lợi ích, giá trị truyền thống trong cộng đồng nh ư phong tục tập quán, niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng, huyết thống...Mỗi thành viên trong cộng đồng tự nguyện phấn đấu, gìn giữ, phát triển các giá trị chung, gắn bó đoàn kết và hoà đồng với nhau. Đặc trưng này được coi là chất keo kết dính nội tại của cộng đồng xã hội và là điểm cơ bản để phân biệt cộng đồng xã hội và nhóm xã hội, mặc dù trong nhiều trường hợp, cộng đồng xã hội đồng nhất với nhóm xã hội. 4.2.3. Phân loại cộng đồng xã hội: - Theo truyền thống, phong tục: Cộng đồng làng xã, Cộng đồng dân tộc. - Theo lãnh thổ [quy mô]: Cộng đồng nhóm [địa phương], Cộng đồng quốc gia, Cộng đồng khu vực và Cộng đồng quốc tế. - Theo văn hoá: các cộng đồng văn hoá. - Theo tôn giáo: các cộng đồng tôn giáo. - Theo chủng tộc: cộng đồng chủng tộc... - Theo lợi ích: Cộng đồng kinh tế, Cộng đồng chính trị...
  9. Thông thường, cộng đồng xã hội luôn gắn liền với một địa bàn lãnh thổ. Lãnh thổ là yếu tố căn bản gắn kết con người trong một cộng đồng. Cho dù trong một số trường hợp, khái niệm cộng đồng có thể đ ược sử dụng để chỉ những tập hợp người đặc biệt như cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng đồng Pháp ngữ...thì từ cộng đồng, địa phương cũng có thể tìm thấy trong đó. Trong xã hội hiện đại, các cộng đồng lãnh thổ không hề tách biệt nhau, mà thường có sự giao lưu, liên hệ mật thiết và ảnh hưởng qua lại trong khuôn khổ một quốc gia, một khu vực hay trên quy mô toàn cầu. 4.2.4. Phạm vi nghiên cứu cộng đồng xã hội của xã hội học: Xã hội học nghiên cứu cộng đồng xã hội nhằm mục tiêu phát triển cộng đồng, giải quyết các vấn đề, qua đó, cộng đồng đ ược tăng cường sức mạnh để tăng trưởng kinh tế cộng đồng và tiến bộ cộng đồng. Thông th ường, cộng đồng xã hội được nghiên cứu trên hai phương diện: 1.Cấu trúc cộng đồng: bao gồm các giá trị, sắc tộc, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, cơ cấu thành viên, phạm vi hoạt động, mức độ ảnh hưởng đối với xã hội nói chung. 2.Chức năng của cộng đồng: như quan hệ cộng đồng với các thành viên tham gia, tìm kiếm giải pháp kết hợp tối ưu giữa cộng đồng và cá nhân. Có thể cụ thể hoá thành những vấn đề sau:
  10. Nghiên cứu hệ thống giá trị, chuẩn mực, văn hoá, phong tục tập quán và vai trò định hướng, điều chỉnh của chúng đối với hành vi, lối sống và cách ứng xử của mọi thành viên trong cộng đồng. Nghiên cứu nhằm vạch ra những yếu tố tích cực, tiến bộ, những nguồn lực, đặc trưng tiêu biểu phát huy sức mạnh cộng đồng, thúc đẩy cộng đồng phát triển. Đồng thời, chỉ ra những mặt tiêu cực, hạn chế của một số giá trị, chuẩn mực đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế đang biến đổi, đang kìm hãm sự phát triển của cộng đồng. Đưa ra những dự báo về xu hướng biến đổi của các giá trị, chỉ ra những giá trị mới đang nảy sinh trong đời sống văn hoá - tinh thần của cộng đồng [như về dân số, kinh tế, môi trường....]. Nghiên cứu những nguy cơ, thách thức, thời cơ, vận hội, điều kiện và những biện pháp giải quyết vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng để phát huy sức mạnh, bản sắc cộng đồng và tránh nguy cơ tụt hậu so với các cộng đồng khác. Mục đích là để khắc phục những yếu tố tiêu cực, phát huy những nhân tố tích cực, tăng cường sức mạnh cộng đồng, điều hoà lợi ích, giải quyết các xung đột, làm cho cộng đồng ổn định và phát triển. Ví dụ: Nâng đỡ các nhóm người đặc biệt trong cộng đồng như các đối tượng chính sách, người nghèo, phụ nữ, người khuyết tật, cải tạo những nhóm ngoài lề, lệch chuẩn nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững, lâu dài cho toàn cộng đồng.
  11. 4.3. TỔ CHỨC XÃ HỘI: 4.3.1. Khái niệm: Tổ chức xã hội là một phạm trù cơ bản của xã hội học. Xã hội học coi tổ chức xã hội là một thành tố của cấu trúc xã hội. Khái niệm tổ chức xã hội có thể được hiểu theo nhiều nghĩa: - Nếu coi tổ chức xã hội là một thành tố của cấu trúc xã hội thì tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết các cá nhân nào đó để hoạt động xã hội, nhằm đạt được một mục đích nhất định. - Ở giác độ nhóm, tổ chức xã hội là một dạng nhóm thứ cấp khá phổ biến, nhưng không phải nhóm thứ cấp nào cũng là tổ chức xã hội. Một nhóm thứ cấp được coi là tổ chức xã hội khi có 5 dấu hiệu cơ bản sau: 1.Là nhóm xã hội có mục tiêu, có chủ đích và có ý thức. 2.Quan hệ quyền lực phải được biểu hiện cụ thể trong cấu trúc của nhóm, các thành viên của nhóm được phân bố trong mạng l ưới các quan hệ quyền lực theo thứ bậc trên dưới-cao thấp; những người có bậc thang quyền lực ở bậc cao hơn có khả năng điều chỉnh hành vi, thái độ của người khác thuộc nấc thang quyền lực thấp hơn.
  12. 3.Cùng với hệ thống quyền lực, tổ chức xã hội là một tập hợp các vị thế và vai trò xã hội tương ứng. 4.Các vai trò của các thành viên tổ chức xã hội được thực hiện theo yêu cầu của tổ chức. Thông qua các quy tắc do tổ chức xã hội đặt ra để điều chỉnh quan hệ giữa các vai trò, nhằm phối hợp việc thực hiện vai trò của các thành viên để hoạt động của tổ chức đi vào nề nếp và ổn định. 5.Phần lớn các tổ chức xã hội chính thức và công khai hoá các mối quan hệ của tổ chức, các thành viên của tổ chức có thể được biết ở mức độ khác nhau về nội dung của nó. Tổ chức xã hội được xem như là một thể chế xã hội, một phương thức quản lý hay là một thuộc tính của xã hội. Hình thức của tổ chức xã hội luôn thay đổi cùng với những thay đổi khách quan của hoàn cảnh xã hội và sự thay đổi chủ quan của bản thân con người. 4.3.2. Phân loại: Tổ chức xã hội có thể được phân loại theo những cách sau: a. Căn cứ vào mức độ hình thức hoá của tổ chức: - Tổ chức chính thức [tổ chức hình thức hoá]: là tổ chức có các quy tắc tổ chức chặt chẽ và được pháp luật thừa nhận [có thể mang t ư cách pháp nhân]; có những
  13. chức năng rõ rệt, thể hiện ở những nghĩa vụ, những quyền hạn của các thành viên; có những công cụ điều tiết thể hiện thành các chuẩn mực hành vi của mỗi thành viên; có những mối liên hệ theo thứ bậc của các chức vụ cũng như liên hệ chức năng trong tổ chức. - Tổ chức không chính thức: là tổ chức không có quy tắc chặt chẽ, không có sự thừa nhận của pháp luật. Tổ chức không chính thức hình thành một cách tự phát ở bên trong hay bên ngoài tổ chức chính thức.Tổ chức không chính thức có hai loại: + Tổ chức ngoài quy tắc: là loại tổ chức được hình thành một cách tự phát giữa các thành viên của một tổ chức chính thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ của tổ chức đó nhưng không theo những quy định chính thức mà có những liên hệ nhiều quy tắc [quan hệ phục tùng] và trong nhiều trường hợp, những liên hệ ngoài quy tắc [do quen biết, do uy tín...] lại có hiệu quả hơn. Hai nhân tố tạo nên mối liên hệ bên trong tổ chức ngoài quy tắc là lợi ích chung và hiệu quả. + Tổ chức tâm lý-xã hội: là loại tổ chức được hình thành một cách tự phát, ở ngoài các tổ chức chính thức, từ những liên hệ cá nhân của những người có chung những nhu cầu nào đó như ăn mặc, giải trí, học tập, văn học - nghệ thuật... b. Căn cứ vào mục tiêu: * Tổ chức xã hội "có tổ chức": bao gồm hai loại nhỏ
  14. - Tổ chức quản lý như cơ quan, xí nghiệp...nhằm giải quyết những nhiệm vụ nhất định, mục tiêu của nó được áp đặt cho các thành viên và sự điều tiết bên trong của nó dựa vào những quy tắc quản lý - bị quản lý. - Tổ chức liên kết: tổ chức này liên kết các hiệp hội quần chúng, trong đó, mục tiêu chung trùng hợp với mục tiêu cá nhân ở mức độ nào đó, các tổ chức loại này được điều tiết theo những quy tắc do các thành viên thiết lập [điều lệ]. * Tổ chức "không có tổ chức" [tổ chức tự phát]: bao gồm: - Tổ chức liên hợp như gia đình, trường phái khoa học, nghệ thuật...với mục tiêu chung trùng hợp với mục tiêu cá nhân, các chức năng điều tiết hình thành một cách tự phát theo những chuẩn mực và giá trị tập thể, ít hoặc không chính thức. - Tổ chức cư trú: được hình thành từ những người, những gia đình ở chung với nhau trên một địa điểm nhằm giải quyết những vấn đề có liên quan với sinh hoạt chung và những liên hệ xóm giềng ổn định. Các loại tổ chức xã hội này có liên quan mật thiết với nhau. Trong thực tế, nhiều trường hợp còn lồng ghép vào nhau để tăng cường và bổ sung lẫn nhau trong hoạt động xã hội, ví dụ như các đoàn thể xã hội trong cơ quan. 4.3.3. Một số dạng của tổ chức xã hội:
  15. Hệ thống tổ chức xã hội bao gồm nhiều dạng tổ chức xã hội khác nhau, ví dụ như một số dạng sau: a. Hiệp hội tự nguyện: Hiệp hội tự nguyện là dạng tổ chức xã hội tương ứng với nhóm không chính thức với 3 đặc điểm chính sau: - Chúng được lập ra vì những lợi ích và nhu cầu của bản thân các thành viên. - Việc gia nhập hiệp hội là hoàn toàn tự nguyện với những tiêu chuẩn không khắt khe. - Các hiệp hội tự nguyện không có mối liên hệ trực tiếp với cơ quan chính quyền các cấp. Tức là, không chịu sự điều hành, chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan chính quyền và các cấp chính quyền cũn g không can thiệp vào các tổ chức tự nguyện nếu hoạt động của họ nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Các hiệp hội tự nguyện không có một cơ cấu chắc chắn hoặc một hệ thống quyền lực cưỡng bức để duy trì hoạt động của mình, mà chỉ dựa vào sự tự nguyện của các thành viên và một hệ thống hành động không bị ràng buộc chặt chẽ. Chính điều này đã thu hút được khá đông thành viên và nguồn kinh phí khá lớn nhờ sự quyên góp, đóng góp, tài trợ. Các hiệp hội tự nguyện ngày càng có xu hướng mở rộng, gắn liền với trình độ phát triển của xã hội. Nó là dạng tổ chức không thể thiếu trong đời sống xã hội, nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần
  16. của các cá nhân trong xã hội, thoả mãn được một phần nhu cầu tổ chức hoạt động sống của các thành viên trong xã hội, đồng thời vẫn tôn trọng tự do cá nhân của họ. b. Tổ chức biệt lập: Tổ chức biệt lập là các tổ chức xã hội được lập ra nhằm đáp ứng và phục vụ cho những lợi ích của Nhà nước, của tôn giáo hay của những cơ quan khác, tức là lợi ích của xã hội nói chung. Tổ chức biệt lập có những đặc điểm sau: - Những thành viên của tổ chức này bị cô lập, tách biệt khỏi xã hội. - Rất nhiều những luật lệ, quy tắc do xã hội và tổ chức biệt lập đặt ra để duy trì trật tự, đồng thời khiến cho các thành viên phải phụ thuộc lẫn nhau. - Tổ chức biệt lập thường có cơ cấu quan hệ phân hoá trên-dưới rất rõ ràng và chặt chẽ. Bản thân các tổ chức biệt lập cũng có thể được chia thành nhiều loại khác nhau. Ví dụ như các tổ chức dành cho những người không thể chăm sóc được bản thân [bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà trẻ mồ côi...]; các tổ chức để giam giữ và cách ly những phần tử bị coi là nguy hiểm cho xã hội [nhà tù, trại cải tạo, trại tập trung...]; các tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt cho xã hội [doanh trại quân sự, tàu chiến, pháo đài...], các tổ chức biệt lập của tôn giáo [nhà dòng, tu viện...].
  17. Các tổ chức biệt lập tồn tại do nhu cầu và lợi ích chung của xã hội, vì vậy, chỉ khi nào xã hội không có nhu cầu về sự tồn tại của các tổ chức biệt lập nữa thì chúng mới chuyển hoá hoàn toàn thành các dạng thông thường, hoặc có thể xoá bỏ nó hoàn toàn trong hệ thống tổ chức xã hội. Tuy vậy, hiện nay, ở đa số các quốc gia, tính chất của các tổ chức biệt lập đang có nhiều thay đổi, tính biệt lập ho àn toàn đã giảm đi đáng kể, các thành viên của tổ chức biệt lập được tiếp xúc với thế giới bên ngoài trực tiếp hay gián tiếp như việc chuyển người già về sống cùng cộng đồng, cho phép một số loại tù nhân được sống tại gia đình... c. Bộ máy công chức: Bộ máy công chức là một hệ thống thứ bậc quyền lực, nghĩa vụ và trách nhiệm. Hệ thống đó là một tổ chức chính thức có thể sử dụng vào hoạt động để hướng tới những mục đích chuyên biệt. Trong hệ thống công chức, tất cả các vị trí, vai tr ò của các thành viên đã được sắp xếp theo một chương trình định trước, do vậy, các mục đích chuyên biệt có thể thực hiện được với hiệu quả cao. Bộ máy công chức ra đời, tồn tại và phát triển trong hệ thống tổ chức xã hội, trở thành một loại hình hoạt động hiệu quả hơn các tổ chức khác. Nó sử dụng tối đa khả năng của người lao động và giảm tối thiểu sức ép căng thẳng cũng như sự va chạm trực tiếp giữa các thành viên của tổ chức trong quan hệ lãnh đạo-phục tùng để có thể đạt được mục đích. Nó có thể đặt các thành viên vào những vị trí đa dạng
  18. trong bậc thang quyền lực của họ [tương ứng với trình độ tri thức và năng lực thực sự của họ]. Bộ máy công chức là một dạng tổ chức xã hội có nhiều ưu thế hơn các dạng tổ chức xã hội khác nhưng nó không phải là hoàn toàn hoàn hảo. Bản thân nó chứa đựng những khiếm khuyết xét cả những yếu tố bên trong và bên ngoài của bộ máy, đặt ra những vấn đề khó giải quyết trong thực tế. Đó là những vấn đề: con người công chức, chủ nghĩa hình thức, mục đích bị thay thế và đạo đức nghề nghiệp...Những vấn đề này tạo nên những "bệnh lý của tổ chức" mà trong hoạt động của bộ máy công chức cần phải đề phòng và khắc phục. 4.4. THIẾT CHẾ XÃ HỘI: 4.4.1. Khái niệm: Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải dựa vào thiết chế xã hội để tổ chức, điều chỉnh và kiểm soát các hoạt động xã hội của các cá nhân, các nhóm xã hội và toàn thể xã hội nói chung. Vậy thiết chế xã hội là gì? - Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm, vận động xung quanh những nhu cầu cơ bản của xã hội. Thiết chế xã hội bao gồm một hệ thống các cách thức, các quy tắc chính thức và phi chính thức, được con người tạo ra để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội.
  19. Xã hội sử dụng thiết chế nhằm quyết định "cái gì phải làm" về lâu dài. Vì vậy, thiết chế xã hội hạn chế sự chuyên quyền, tuỳ tiện của hành động xã hội, chúng tạo cho tồn tại đặc tính hình thể, xếp đặt nó và tạo ra tác động chuẩn mực. Với ý nghĩa đó, thiết chế xã hội được coi là một đoạn của văn hoá đã được khuôn mẫu hoá [J.Fichter]. Theo các nhà xã hội học, thiết chế xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển là do nó đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội là lý do hình thành và là mục đích tồn tại của thiết chế xã hội. Lenski và Lenski [1970] cho rằng, trong mọi xã hội bao giờ cũng có những nhu cầu cơ bản mà việc thoả mãn chúng có ý nghĩa sống còn đối với bản thân xã hội, cụ thể như: nhu cầu giao tiếp giữa các thành viên, nhu cầu sản xuất và sản phẩm dịch vụ, nhu cầu phân phối các sản phẩm và dịch vụ hàng, nhu cầu bảo vệ các thành viên khỏi tác động của thiên nhiên [như thiên tai], bệnh tật và các nguy hiểm khác; nhu cầu thay thế các thành viên [cả tái sinh sản sinh học và thay thế văn hoá thông qua quá trình xã hội hoá]; nhu cầu kiểm soát hành vi của các thành viên. Việc thoả mãn các nhu cầu trên tạo thành các thiết chế xã hội cơ bản. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn xảy ra sự nhầm lẫn khi cho rằng thiết chế xã hội là một tổ chức xã hội, bởi vì, mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình tương tự như một tổ chức xã hội hay một nhóm xã hội. Do đó, cần phải phân biệt thiết chế xã hội với tổ chức xã hội.
  20. - Tổ chức là một tập hợp người thực hiện những hoạt động nhất định nhằm đạt được mục tiêu xác định. Vì vậy, tổ chức xã hội không phải là thiết chế xã hội mà là chủ thể của những hành động bị thiết chế xã hội điều chỉnh. Tổ chức xã hội không thể hoạt động được nếu thiếu thiết chế xã hội. - Tổ chức xã hội gắn liền với thiết chế xã hội giống như những người tham gia cuộc chơi phải tuân thủ luật chơi. Luật chơi ở đây là các quy phạm, giá trị, chuẩn mực chính thức và phi chính thức [tức là thiết chế]. 4.4.2. Đặc điểm của thiết chế xã hội: - Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Bởi vì thiết chế hình thành trên cơ sở của một hệ thống các giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững. Bởi vậy, khi đã tạo thành khuôn mẫu hành vi trong thiết chế thì nó khó thay đổi [trở thành truyền thống văn hoá]. Ví dụ như những quy định trong thiết chế làng xã, thiết chế gia đình, thiết chế văn hoá.... - Mỗi một thiết chế có đối tượng riêng để hướng tới phục vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan tới đối tượng đó. Vì vậy, thiết chế có tính độc lập tương đối, tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức xung quanh một hệ thống giá trị, quy tắc, khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận. Ví dụ, thiết chế thể thao bao gồm hệ thống sân vận động, nhà thi đấu, vận động viên, huấn luyện viên, cổ động viên, bộ máy hành chính....gắn liền với các giá trị và chuẩn mực đối với

TÂM LÝ XÃ HỘI CĂN BẢN – PHẦN 2: TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG, ẢNH HƯỞNG NHÓM VÀ SỰ PHỤC TÙNG

Stanley Milgram

Psychub xin tiếp tục gửi đến các bạn chuỗi bài viết 3 phần về các hiện tượng xã hội dưới góc nhìn của tâm lý học.

Kì trước chúng ta đã bàn đến hiện tượng quy gán cá nhân và quy gán hoàn cảnh.

Các bạn có thể đọc PHẦN 1: QUY GÁN

Kì này chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu một hiện tượng thường xuyên xuất hiện trong tương tác xã hội hàng ngày: Ảnh hưởng của nhóm.

Video liên quan

Chủ Đề