Thắng lợi lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là gì

Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc

Cách đây 50 năm, vào dịp Tết Mậu Thân 1968 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân ta đồng loạt tấn công vào các trung tâm sào huyệt của Mỹ- ngụy trên toàn miền Nam. Cuộc tiến công “táo bạo, bất ngờ đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.

Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông quaKế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân và dân ta, chủ trương chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 1-1968) thông qua. Trong đó phương án xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn – Gia Định, Huế, Đà Nẵng, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 – Khe Sanh. Cụ thể là:cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 – Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn – Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm làSài Gòn – Gia Định, Huế, Đà Nẵngvà các thành phố lớn.Với ý chí quyết tâm, cả dân tộc bước vào trận đánh quyết định nhằm tạo ra bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Quán triệt phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào chiến trường trọng điểm Sài Gòn – Gia Định, Huế, Đà Nẵng, trước đó 10 ngày, hai sư đoàn của ta đánh nghi binh, nhằm “đánh lạc hướng” đối phương bằng cuộc tấn công vào căn cứ của lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh, gây sự chú ý của Mỹ, làm cho Bộ Chỉ huy Mỹ tập trung tâm trí và binh lực lên miền núiQuảng Trị để tránh một trận Điện Biên Phủ mới, sau đó quân ta sẽ tiếp ứng thẩm thấu vào thành phố, tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tấn công của ta vào căn cứ Khe Sanh được giới chuyên môn Mỹ đánh giá như tấn công vào Oasinhtơn – gây chấn động cả nước Mỹ.

Mỹ, nguỵ bị thu hút vào Khe Sanh, bất ngờ, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), quân và dân miền Nam đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn – Gia Định và Huế, Đà Nẵng, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn.

TạiSài Gòn - Gia Địnhlà trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - ngụy tại miền Nam Việt Nam. Ngay từ phút đầu nổ súng, biệt động ta đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu quy định: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh Hải quân, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, toà Đại sứ Mỹ, các căn cứ hậu cần, sân bay, bến cảng, nhiều sở chỉ huy cấp quân khu, quân đoàn, sư đoàn của Mỹ ngụy…. Trận đánh toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sĩ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ. ồng thời với lực lượng biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn trang bị gọn nhẹ, từ các bàn đạp vùng ven, nhanh chóng tiến vào nội đô trên các hướng. Xung quanh Sài Gòn - Gia Định, các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hoà, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An...cũng bị tiến công.

Tại mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà đèn, Ty Cảnh sát, Toà tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49. Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi. Tại mặt trận Huế, lúc 22 giờ 33 phút, ngày 31 tháng 01 năm 1968, tiếng súng tấn công bắt đầu vang lên khắp thành phố; sau 4 ngày chiến đấu liên tục quân và dân ta đánh chiếm hầu hết các mục tiêu quan trọng như: Dinh Tỉnh trưởng, đồn cảnh sát, đài Phát thanh, khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang (hang ổ của Mỹ), sân bay Phú Bài…Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.

Tiếp theo đợt I, đợt tiến công mùa hè- đợt 2, từ ngày 5-5 đến ngày 12-5-1968, quân và dân ta trên khắp chiến trường đã đồng loạt bắn phá và tiến công bằng bộ binh vào 31 thành phố và thị xã, 58 thị trấn và quận lỵ, đánh trúng 10 bộ tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân và trung tâm huấn luyện của địch. Trên mặt trận Đường 9- Khe Sanh, với tinh thần anh dũng và bất khuất, trải qua hơn 170 ngày đêm chiến đấu liên tục với 4 đợt tấn công (từ ngày 20.1 đến 15.7.1968) quân và dân ta đã giành chiến thắng oanh liệt, buộc Mỹ phải chịu thất thủ rút khỏi Khe Sanh, giải phóng khu vực đường số 9 và huyện Hướng Hóa với gần 10.000 dân, mở thông hành lang tuyến đường vận tải chiến lược Bắc-Nam chi viện chiến trường miền Nam.

Đợt 3 được tiến hành từ ngày 17-8 đến ngày 30-9-1968, quân và dân ta đã tiến công chủ yếu bằng pháo vào 27 thành phố và thị xã, 100 thị trấn, quận lỵ và chi khu quân sự, 47 sân bay, 3 tổng kho lớn, 6 bộ tư lệnh sư đoàn Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, các địa bàn tiến công trải rộng khắp miền Nam từ Trị Thiên Huế cho đến mảnh đất cực Nam Cà Mau. Nhưng điểm đặc biệt là lần đầu tiên quân ta tiến công vào hầu khắp các đô thị, nơi tập trung lực lượng quân sự, chính trị chủ yếu của địch. Đó là bất ngờ lớn và trên thực tế đợt tiến công đầu tiên vào những ngày đầu Xuân Mậu Thân đã gây thiệt hại lớn cho địch.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một sự kiện có ý nghĩa chiến lược, đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi tới thắng lợi. Bằng cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải đơn phương “xuống thang chiến tranh”, khởi đầu cho một quá trình đi xuống về mặt chiến lược. Tác động to lớn, trực tiếp của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân buộc Mỹ phải hạn chế ném bom, bắn phá miền Bắc, tiến đến chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, tham gia đàm phán hòa bình nhằm tìm lối thoát ra khỏi cuộc chiến tranh. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đỉnh điểm là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, đã tác động mạnh mẽ đến chính giới Mỹ, làm cho nước Mỹ phân hóa hơn bao giờ hết, làn sóng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam dâng cao trong lòng nước Mỹ, buộc giới lãnh đạo Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Tổng thống Giônxơn buộc phải tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Mặt trận quốc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam mở rộng và dâng cao hơn bao giờ hết.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 dù chưa đạt được yêu cầu theo khả năng thứ nhất như dự kiến; và phải hy sinh to lớn, nhưng quân và dân ta đã xoay chuyển được cục diện chiến tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến tiến lên theo phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trongThư chúc Tếtnăm 1969; "Vìđộc lập, vì tự do; đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 là một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta: nghệ thuật nắm bắt thời cơ để chủ động giáng đòn quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh; nghệ thuật tiến công bằng cách đánh chiến lược mới, giành thế bất ngờ, đưa chiến tranh vào thành thị; là nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đông”, lấy trí tuệ của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ.

Kỷ niệm 50 năm thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vào thời điểm công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và đang đứng trước thời cơ, vận hội phát triển mới với những khó khăn, thách thức đan xen, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thử thách, chuyển thách thức thành thời cơ để phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.Trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Đẩy mạnh xây dựng và nâng cao tiềm lực quốc phòng - quân sự, kết hợp kiến quốc với phòng thủ đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, quốc phú binh cường. Kết hợp hài hoà xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự với xây dựng tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực chính trị - tinh thần, đặc biệt là thế trận lòng dân, tiềm lực khoa học - công nghệ; nghiên cứu vận dụng nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân trong chiến tranh giải phóng vào chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên mọi địa bàn.

Phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, chúng ta nhất định sẽ đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ Quang Hóa

Lần xem: 3682
Thắng lợi lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là gì
Go top

Thắng lợi chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968-Mạch nguồn bồi đắp, giáo dục truyền thống yêu nước, tình cảm cách mạng

Thắng lợi lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là gì

Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM Thân Thị Thư phát biểu tham luận tại Hội thảo khoa học lịch sử “Vai trò của lực lượng CAND trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”. (Ảnh: Long Hồ)

(Thanhuytphcm.vn) - Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như dòng chảy cuồn cuộn của bao lớp sóng; sóng sau xô sóng trước, tạo nên sức mạnh phi thường, xua tan mọi trở ngại. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo là vô cùng vĩ đại, bằng cả một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của đồng bào và chiến sĩ trên cả hai miền Nam - Bắc; là hiện thực sinh động của các cơn sóng cách mạng không bao giờ ngừng nghỉ cho khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 đã góp phần to lớn, tạo nên thắng lợi toàn diện, thể hiện tinh thần cách mạng tiến công của quân dân ta, đánh dấu bước ngoặt quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, nếu không có Mậu Thân 1968 - thì sẽ không có đàm phán đi đến ký Hiệp định Pari tháng 1-1973 và tiến tới Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục là mạch nguồn bồi đắp, giáo dục truyền thống yêu nước, tình cảm cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

1. Mạch nguồn đó là giá trị lịch sử, là kết tinh của truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh dựng nước và giữ nước; là khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và niềm tin son sắt vào thắng lợi cuối cùng.

Ở Việt Nam, điều đã trở thành bình thường nhưng là chân lý: khi có bất kỳ hành động xâm phạm đất nước, thì sẽ có phong trào cứu nước rộng khắp của mọi tầng lớp nhân dân, như lẽ tự nhiên "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh!". Tiếp nối hành trình của dân tộc chiến đấu không mệt mỏi cho độc lập, tự do dưới ánh sáng thời đại của đường lối "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội", được mở ra từ mùa Xuân năm 1930, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, qua bước ngoặt lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" tháng 5-1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tiếp tục trở thành một biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân Việt Nam, là hành động cách mạng thực tiễn đáp lại Lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh hun đúc và nâng cao thêm ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta.

Ý chí, quyết tâm đó được Trung ương Đảng xác định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III: "Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước"[1]; biến thành sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước, được tổ chức, tập hợp bằng phương pháp và động lực to lớn: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định".

Ý chí của Đảng, cũng là ý chí quyết tâm của toàn quân, toàn dân "giành thắng lợi quyết định" để không còn cảnh chia cắt hai miền Nam - Bắc, thống nhất nước nhà; để hiện thực hóa khát vọng hòa bình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Nhân dân ta rất yêu chuộng hòa bình. Nhưng phải có độc lập, tự do thì mới có hòa bình thật sự. Đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, phải rút hết quân đội của chúng về nước, để nhân dân ta tự quyết định vận mệnh của mình thì sẽ có hòa bình lập tức"[2]; cũng là hiện thực hóa niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng và mong muốn như trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 8-5-1968: "Hai miền Nam - Bắc đoàn kết một lòng, thi đua giết giặc, cứu nước, thì nhất định giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Đồng bào miền Nam nhất định sẽ được giải phóng. Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ hoàn toàn độc lập, tự do, nhất định sẽ hòa bình thống nhất! Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!".

Và thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã thực hiện được "bước phát triển" mang tầm chiến lược của cuộc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, chúng ta đã đưa cuộc chiến đấu quy mô lớn vào tận sào huyệt cuối cùng của địch, làm chuyển biến nhanh chóng và mạnh mẽ cục diện chiến tranh, nâng cao uy thế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, cuộc Tổng tiến công này đã giáng một đòn quyết định làm phá sản cơ bản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải "phi Mỹ hóa" chiến tranh, ngừng chiến tranh phá hoại miền Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra), chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Pari, tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; từ đó, tiến tới ký kết Hiệp định Pari, tạo điều kiện hết sức thuận lợi để "đánh cho Mỹ cút", đưa cuộc kháng chiến chuyển sang mục tiêu "đánh cho ngụy nhào", giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân 1975 lịch sử.

Tại Sài Gòn - Gia Định, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 càng tô thắm truyền thống của Đảng bộ và nhân dân thành phố trung kiên, bất khuất, đoàn kết, sáng tạo, bản lĩnh vững vàng trước đầu sóng ngọn gió trong suốt hành trình cách mạng của đất nước và dân tộc.

Sài Gòn - Gia Ðịnh là trọng điểm lớn nhất và ác liệt nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vì nơi đây là trung tâm đầu não chỉ huy toàn bộ bộ máy chiến tranh, có hệ thống phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp vững chắc, tập trung lực lượng tinh nhuệ nhất của địch. Do đó, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương Cục đã thành lập Khu trọng điểm bao gồm Khu Sài Gòn - Gia Định và một phần các tỉnh tiếp giáp với Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Khu trọng điểm, các lực lượng của Sài Gòn - Gia Định đã chấp hành và tổ chức triển khai các nhiệm vụ của Trung ương Cục giao cho với tinh thần quyết tâm cao nhất: đánh chiếm các mục tiêu đầu não của Mỹ - chính quyền Sài Gòn, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch; phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành quyền làm chủ ở các quận, huyện; tranh thủ mọi khả năng cùng với lực lượng toàn Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn ở các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của quân Mỹ và chư hầu; buộc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam; thành lập Mặt trận thứ hai[3] và tổ chức chính quyền cách mạng các cấp trong thành phố và khu trọng điểm.

Ðêm 30 rạng ngày 31-1-1968, cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ với đòn giáng phủ đầu của lực lượng Biệt động thành vào những mục tiêu hiểm yếu, đầu não của bộ máy chiến tranh như Dinh Ðộc Lập, Tòa Ðại sứ Mỹ, Ðài Phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân... đã làm rúng động nước Mỹ, khiến nhân dân Mỹ bàng hoàng, khiến khuynh hướng muốn chấm dứt chiến tranh trở thành áp đảo. Cùng với đó, lực lượng vũ trang của các đoàn thể, các cơ sở cách mạng ở thành phố đã phối hợp với bộ đội chủ lực, với biệt động Thành tấn công địch bằng nhiều hình thức linh hoạt, đã tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch.

"Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn - Thủ đô đầu não của chế độ ngụy quyền, đã tạo nên sự phân hóa chia rẽ cao độ trong hàng ngũ kẻ thù; thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước và tinh thần cách mạng trong lòng nhân dân đô thị; đồng thời cũng thúc đẩy cao hơn phong trào phản chiến của lính Mỹ, phong trào của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới phản đối chiến tranh xâm lược"[4], góp phần vào thắng lợi chiến lược của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

2. Mạch nguồn đó là minh chứng của truyền thống đánh giặc bằng nghệ thuật, trí tuệ, mưu lược, sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta.

Thắng lợi chiến lược của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết quả sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng minh chứng cho tài thao lược của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định và kiên định đường lối cách mạng và lãnh đạo kháng chiến; nhận ra thời điểm quan trọng của cuộc chiến tranh, thấy được thời cơ quý báu để có chủ trương chiến lược kịp thời; là nghệ thuật biết giành thắng lợi từng bước, quan trọng nhất là đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Và thực tế cho thấy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với khởi nghĩa vũ trang theo quy luật của tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, bằng lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, binh vận, lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng cách mạng diễn ra vô cùng ác liệt cả ở thành thị và nông thôn vùng ven, bằng những cuộc tiến công và phản kích liên tiếp, kéo dài. Nhân dân Sài Gòn và các đô thị miền Nam được tận mắt chứng kiến hình ảnh anh Giải phóng quân với vành mũ tai bèo, chứng kiến "Quân giải phóng" chính quy đánh địch trên từng góc phố, trong tư thế hiên ngang và kỷ luật nghiêm minh. Cùng với các cuộc tiến công đồng loạt của lực lượng vũ trang, nhân dân nhiều vùng nông thôn và thành thị nổi dậy diệt ác, trừ gian giải tán dân vệ, phá vỡ hàng loạt "ấp chiến lược" giành quyền làm chủ.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tiến công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn vào các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng"[5], làm cho kẻ địch không thể phán đoán cách đánh cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Bất ngờ trong xác định chủ trương, chiến lược của Đảng đến tổ chức chỉ đạo, bố trí quy mô lực lượng, đến mục tiêu và thời điểm tiến công, để phát huy cao nhất một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nghệ thuật quân sự.

Có thể nói, tất cả những sáng tạo trong chiến lược, chiến dịch và chiến thuật tổ chức cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là kết tinh từ nghệ thuật đánh giặc của ông cha qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tô thắm truyền thống và bài học "dựa vào dân" của dân tộc ta.

Thắng lợi lớn nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là gì
Các chiến sỹ phân đội 1 và 2 quân Giải phóng Trị-Thiên-Huế nghiên cứu sa bàn trước khi tấn công trung đoàn 7 thiết giáp ngụy. (Ảnh: TTXGP)

3. Mạch nguồn đó là một trong những biểu tượng của truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi nào, trong cuộc đấu tranh quyết liệt, tử sinh cũng phải trả giá bằng xương máu, bằng sự hy sinh. "Chiến thắng lớn từ hy sinh to lớn. Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường"[6]. Thế hệ hôm nay mãi mãi biết ơn các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã chiến đấu, anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và trong toàn bộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ghi lòng tạc dạ công lao của những người con ưu tú đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc, tham gia viết nên thiên anh hùng ca Xuân Mậu Thân 1968 bất diệt, khắc họa nên "dáng đứng Việt Nam" bất tử.

Đó là tinh thần dũng cảm vô song, mưu lược tài ba của các lực lượng vũ trang, đã mở đầu xuất sắc cuộc tổng tiến công ở Sài Gòn - Gia Ðịnh cùng với các chiến trường đô thị khắp miền Nam, dù chiến trường trọng điểm hay những địa bàn "chia lửa". Đặc biệt, chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước chiến công oanh liệt và cả sự hy sinh, mất mát lớn lao của lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Ðịnh, với tinh thần quả cảm cao độ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hầu hết cán bộ, chiến sĩ lực lượng biệt động đã anh dũng hy sinh hoặc rơi vào tay địch. Nhưng ý chí và xương máu của lực lượng biệt động đã dựng lên những tượng đài bất tử của Xuân Mậu Thân 1968.

Đó là lớp lớp thanh niên, sinh viên, học sinh đứng lên sát cánh chiến đấu cùng các chiến sĩ Quân giải phóng. Thế hệ trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay mãi mãi tự hào về lực lượng Thành đoàn Sài Gòn - Gia Định trong Mậu Thân 1968, tự hào về người Bí thư Thành đoàn Hồ Hảo Hớn quyết hy sinh để giữ bí mật về Nghị quyết Quang Trung - mật danh Nghị quyết của Trung ương Cục về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân khi đồng chí rơi vào tay giặc; tự hào về lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị Thành Đoàn trong Mậu Thân 1968, đã hoạt động mạnh mẽ ở khu xóm Bàn Cờ, Vườn Chuối, Nguyễn Thông, Lê Văn Duyệt, khu vực chùa Ấn Quang, Bảy Hiền... tham gia các mũi đột kích, diệt ác, rải truyền đơn, treo cờ Mặt trận. Nhiều chiến sĩ Thành đoàn đã anh dũng hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân giữa đường phố Sài Gòn và được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như Lê Văn Nghề, Nguyễn Sơn Hà (Bảy Thép)...

Đó là lực lượng phụ nữ tham gia vào các đội biệt động, các thứ quân địa phương, giao liên, dân công và cứu thương. Ðặc biệt như phụ nữ Sài Gòn - Gia Ðịnh đóng vai trò quan trọng trong xây dựng cơ sở chính trị trong lòng thành phố, xây dựng các "lõm chính trị", "lõm" căn cứ "nhân tâm" vững chắc trong các chợ, trong khu dân cư lao động.

Đó là đội ngũ giáo chức, văn nghệ sĩ và nông dân ở vùng ven đã tham gia tích cực, vừa hỗ trợ cho lực lượng vũ trang, lực lượng đấu tranh chính trị của công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh vừa tổ chức những hoạt động phù hợp, phát loa, treo cờ, rải truyền đơn, kêu gọi binh lính Sài Gòn bỏ súng về với gia đình.

Đó là các gia đình cơ sở cách mạng đã chấp nhận hy sinh, mất mát, bất chấp nguy hiểm, vận chuyển, cất giấu vũ khí hàng tháng trời trước đó, nuôi giấu cán bộ chiến sĩ, cung cấp cho lực lượng biệt động chiến đấu làm nên những trận đánh vang dội tại Sài Gòn.

Chúng ta mãi mãi không thể nào quên bước chân và chiến công của đồng bào, đồng chí in dấu trên đường phố, từng khu dân cư lao động, từng ngõ hẻm Sài Gòn và các đô thị miền Nam năm ấy; không thể nào quên những hình ảnh của những người lính Cụ Hồ đã kề vai sát cánh của mỗi góc phố, tòa nhà, hiên ngang nhả đạn vào quân thù để chia lửa, che chắn cho nhau; những người mẹ, người chị, em nhỏ dù biết rằng sẽ bị tù đày, tra tấn dã man, hy sinh cả xương máu... nhưng đã dũng cảm băng qua lửa đạn, dẫn đường, mang cơm tiếp tế, cứu thương cho bộ đội nơi trận tuyến trong tầm đạn thù vô cùng khốc liệt... Đúng là "lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất ..."[7].

Chúng ta cũng không thể quên nhiều đồng chí cán bộ, chiến sĩ sau Mậu Thân bị bắt vẫn trung kiên, chịu đựng tù đày tra tấn dã man, một lòng son sắt, sẵn sàng hy sinh để giữ gìn khí tiết của người cách mạng, của người cộng sản.

Hòa vào dòng thác cách mạng với khí thế hào hùng trong Xuân Mậu Thân 1968, cán bộ, chiến sĩ của ngành Tuyên huấn Trung ương Cục, Tuyên huấn Thành ủy, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định cũng đã "xông trận" bằng tinh thần và lực lượng cao nhất. Anh em cánh Tuyên huấn tỏa ra trên nhiều trọng điểm, áp sát địa bàn, đột nhập vào ấp chiến lược, thị trấn, thị tứ phổ biến thời cơ chiến lược, vận động nhân dân nổi dậy; rải truyền đơn, dán áp phích, vẽ bản đồ cung cấp cho bộ đội, thực hiện vũ trang tuyên truyền; tổ chức các đoàn văn công, đoàn văn nghệ sĩ Phật tử trong phái Ấn Quang, hội thảo "Văn nghệ sĩ trước hiện tình đất nước", ca ngợi cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc, có ảnh hưởng lớn trong nhân dân; in báo Cờ Giải phóng, đưa tin, hình ảnh chiến trường để cổ vũ, động viên đồng bào, chiến sĩ và tham gia chiến đấu ngay trong lòng đô thị Sài Gòn, tại vùng lõm Bảy Hiền, Gò Vấp, Hóc Môn... Nhiều chiến sĩ tuyên huấn Sài Gòn - Gia Định đã anh dũng ngã xuống trong khói lửa Mậu Thân 1968 ngay trên đường phố Sài Gòn như Nguyễn Kim Hon (Ba Thanh), Nguyễn Thị Thu, Lê Quang Bửu (Hai Thanh), Nguyễn Văn Đáng, Lê Văn Dựng, Phan Thế Trung...

Tất cả, một lần nữa tô thắm cho truyền thống anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, hy sinh quên mình của quân, dân ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhấtđất nước.

Năm mươi năm đã trôi qua, tiếp tục nhìn nhận một sự kiện lịch sử quan trọng bằng phương pháp khoa học, biện chứng để khẳng định giá trị, trân trọng quá khứ và chiêm nghiệm những bài học lịch sử từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng thời đấu tranh mạnh mẽ chống lại những quan điểm thiếu cơ sở khoa học nhằm làm giảm ý nghĩa to lớn của chiến thắng này là công việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Để làm tốt nhiệm vụ chiến lược ấy, nhất thiết phải xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự từ trong thời bình, như di huấn của cha ông, kết hợp kiến quốc với phòng thủ đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, quốc phú binh cường. Kết hợp hài hòa xây dựng tiềm lực quốc phòng - quân sự với xây dựng tiềm lực kinh tế - xã hội, tiềm lực chính trị - tinh thần, đặc biệt là thế trận lòng dân bằng sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của toàn dân.

Trong nhiệm vụ chung, ngành Tuyên giáo Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc góp sức làm cho mạch nguồn lòng yêu nước, tình cảm cách mạng không ngừng tuôn chảy, ngày càng phong phú. Không bao giờ ngưng nghỉ nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống, đặc biệt cho thế hệ trẻ để lan tỏa, lan truyền, tiếp nối các giá trị tốt đẹp; bồi đắp để nâng cao hơn nữa giá trị lòng yêu nước, ý chí quyết tâm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tự lực tự cường, vươn lên mạnh mẽ để thoát khỏi tình trạng có nguy cơ tụt hậu, xây dựng đất nước thật sự phồn vinh, bằng tinh thần, sức mạnh như chúng ta đã làm được trong cuộc đấu tranh giải phóng.

THÂN THỊ THƯ

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

_______________________

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd , t.29, tr.41, 50.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.456, 457.

[3] Mặt trận thứ hai có tên là Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên minh, có cờ, có tuyên ngôn riêng. Trong đợt Tết Mậu Thân, Mặt trận Liên minh mới có Ban Vận động chứ chưa có Ủy ban Trung ương chính thức. Mặt trận Liên minh có trách nhiệm kêu gọi nhân dân thành phố nổi dậy.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 -1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.770.

[5] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Tết Mậu Thân, trận quyết chiến chiến lược lịch sử", Sài Gòn - Mậu Thân 1968, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr.359.

[6] Viễn Phương, trích Văn bia tại Đền thờ Liệt sĩ Bến Dược, Củ Chi.

[7] Tố Hữu "Bài ca Xuân 68".