Theo Hồ Chí Minh đầu vừa là mục tiêu giải phóng dân tộc vừa là động lực của cách mạng

Trong hành trình tìm đường cứu nước và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh luôn xác định, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và là nguyên nhân dẫn đến những thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh.

Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [1]. Đó là con đường Cách mạng Tháng Mười Nga [1917], bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật” [2]. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Sau khi tìm được đường lối cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc chủ trương đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" [3]. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH. Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám [1939-1945], khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, nhân dân Việt Nam và Đông Dương đứng trước nguy cơ tồn vong dưới sự cai trị của thực dân Pháp và quân phiệt Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 8 do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì [5-1941], khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” [4]. Khi thời cơ khởi nghĩa [8-1945] đã đến, Người chỉ rõ: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".

Trong "Tuyên ngôn độc lập" đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý mới có ý nghĩa thời đại: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” [5]. Với "Tuyên ngôn độc lập", Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, tạo tiền đề để Việt Nam xây dựng một chế độ mới, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, thù trong, giặc ngoài âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, hòng áp đặt ách cai trị dân tộc ta một lần nữa. Trước tình thế hiểm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta cùng một lúc chống 3 thứ giặc: “Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Khôn khéo, linh hoạt, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm nguy “ngàn cân treo sợi tóc”, tranh thủ thời gian xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.

Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến". Người khẳng định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”; đồng thời, chủ trương đẩy mạnh kháng chiến và kiến quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thức tỉnh chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ánh sáng soi đường, truyền cảm hứng cho nhân dân ta quyết tâm chiến đấu, hy sinh bảo vệ thành quả cách mạng, làm nên chiến thắng lịch sử “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công.

Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bước vào thời kỳ cách mạng mới, cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tại miền Bắc, trong bối cảnh quá độ lên CNXH với điểm xuất phát thấp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn: Quá độ lên CNXH trong điều kiện nước ta phải làm dần dần, từng bước, không chủ quan, nóng vội; phải biết tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em; tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tìm ra cách thức, bước đi phù hợp với thời kỳ quá độ lên CNXH. Phải luôn xuất phát từ điều kiện thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh chủ quan, nóng vội, giáo điều, dập khuôn, máy móc. Người cho rằng, thắng thực dân, đế quốc đã khó, nhưng thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều. Xây dựng xã hội mới là một cuộc chiến đấu khổng lồ, để giành thắng lợi, phải dựa vào lực lượng toàn dân, động viên, tổ chức, phát huy được sức mạnh vĩ đại của toàn dân.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc. Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [6]. Chân lý mà Người nêu ra trở thành lẽ sống, phương châm hành động của các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ. Nhờ vậy, đã khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước triệu người như một sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, với tinh thần: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Sự đồng lòng của cả dân tộc đã làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non song về một mối, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Nguồn cội của mọi thắng lợi vĩ đại đó là do Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Trong quá trình lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người dân. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hòa thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng CNXH, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.

Theo quan niệm của Người, giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi theo Người: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến nên Người chỉ rõ, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng là phải xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đó là một chế độ xã hội tốt đẹp mà trong đó “Xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt" [7].

Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH là tư tưởng lớn, xuyên suốt trong hành trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Nhờ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, từng bước xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, xứng đáng với mong ước của Người khi sinh thời./.

PGS, TS NGUYỄN DANH TIÊN,Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.30.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, tr. 280.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.1998, t.2, tr.2.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.113.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.437.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.130-133.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, t.1, tr.11-12.

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại "Phủ Chủ tịch" Việt Bắc năm 1952

1.2. Động lực cách mạng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

- Đại đoàn kết dân tộc với nòng cốt liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Động lực chủ yếu của cách mạng XHCN là các giai cấp và tầng lớp mà lợi ích của họ gắn bó với cách mạng XHCN. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng ghen chỉ rõ: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc là mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”[2]. Cách mạng XHCN với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi tình trạng áp bức bóc lột, thu hút được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. Vì vậy, động lực của cách mạng XHCN là tổng hợp sức mạnh của các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng xã hội, trong đó động lực chủ yếu là khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên,  vai trò của mỗi giai cấp và tầng lớp trong cách mạng XHCN có sự khác nhau.

Công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cách mạng XHCN. Công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp đã phát triển cả về lượng và chất, là lực lượng lao động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã hội hiện đại, là lực lượng xã hội đi đầu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song,  C. Mác chỉ ra rằng: cách mạng vô sản phải là một bài đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân, mà nếu không có được bài đồng ca này thì trong tất cả các quốc gia nông dân, bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành một bài ai điếu.

Nông dân là lực lượng đông đảo, giai cấp công nhân chỉ có thể giành được chính quyền và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình khi lôi kéo được giai cấp nông dân theo mình. Xét về kinh tế, nông dân là lực lượng quan trọng trong xã hội. Xét về chính trị - xã hội, nông dân là lực lượng cơ bản tham gia bảo vệ chính quyền, nhà nước XHCN. Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, là một động lực to lớn trong cách mạng XHCN, nhưng không thể là lực lượng lãnh đạo cách mạng XHCN.

Trí thức là những người có vị trí rất quan trọng trong cách mạng XHCN.  V.I. Lênin đã khẳng định, không có tri thức không thể có chủ nghĩa xã hội. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chính sách đó. Trong thời đại khoa học công nghệ, giá trị lao động chất xám ngày càng cao, thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng to lớn hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng XHCN, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”[3]. Đội ngũ trí thức “phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hoá và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”[4].

Liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó chính là động lực con người trong cách mạng XHCN được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận ở cả góc độ toàn thể cộng đồng quốc gia dân tộc và ở góc độ mỗi cá nhân con người đều cần phải được phát huy thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực trong cách mạng XHCN, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: "Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội"[5].

- Sức mạnh con người với tư cách cá nhân người lao động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: quy luật cơ bản của kinh tế XHCN là thoả mãn những nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng cao của nhân dân lao động. Vì vậy, Người luôn quan tâm việc giải quyết hài hòa nhu cầu, lợi ích của cá nhân người lao động với nhu cầu, lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc trong hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Người chỉ rõ: "Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng"[6].

 Người khẳng định: không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN. Trong chế độ XHCN là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng, coi trọng động  lực cá nhân, tìm tòi cơ chế, chính sách để kết hợp hài hòa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, như khoán, thưởng, phạt trong kinh tế. Người khẳng định: "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"[7].

 - Động lực chính trị tinh thần.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý phát huy quyền và ý thức làm chủ của người lao động. Người chỉ rõ: ngày nay chính chúng ta là người chủ. Chúng ta làm chủ cuộc sống mới do chúng ta xây dựng nên. Chúng ta làm chủ tương lai của mình và của con cháu mình. Cho nên, chúng ta sẵn sàng đem hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của giai cấp, của Tổ quốc. Người lao động có quyền làm chủ trên tất cả các mặt sở hữu, quá trình sản xuất, quá trình phân phối. Người yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. "Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai"[8].

Thực hiện công bằng xã hội. Luôn coi công bằng là một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội, vì thế, Người nhắc nhở: trong công tác phân phối, lưu thông nói riêng và trong mọi công việc luôn nhớ: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[9]. Công bằng nhưng không phải là cào bằng một cách bình quân, giỏi kém đều như nhau, làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội.

 - Sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng các lĩnh vực văn hóa, chính trị, giáo dục, đạo đức, lối sống, pháp luật, văn học nghệ thuật, với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của phát triển. Chính nhờ văn hóa với hạt nhân là con người có trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, lối sống, phong cách lành mạnh mà chúng ta đã chiến thắng các đế quốc, đồng thời phát triển các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh.

 - Sức mạnh của thời đại.

Tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Đặc biệt, vào những năm 60 của thế kỷ XX, khi hệ thống XHCN thế giới ở vào thời kỳ hùng mạnh, đang quyết định xu hướng phát triển của xã hội loài người. Đoàn kết với các nước XHCN, chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ cả về tinh thần, kinh nghiệm và vật chất để trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trở thành hậu phương vững chắc quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giành hòa bình, độc lập, thống nhất nước nhà.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành một nguyên tắc chiến lược cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng nguyên tắc đó trong xác định ngoại động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay ở nước ta, đó chính là việc phải biết tranh thủ sự hợp tác song phương, đa phương với tất cả các nước và các tổ chức trên thế giới với tinh thần Việt Nam muốn "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh"[10].

Bên cạnh đó, cần tranh thủ những thành tựu tiên tiến của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.

2. Điều kiện bảo đảm cho động lực trở thành sức mạnh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

2.1 Xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng

Xác định những điều kiện phát huy sức mạnh các động lực đưa cách mạng đến thắng lợi, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải có Đảng. "Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”11]. Tức là phải xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức chính trị, tư tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[12].

2.2 Xây dựng và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước

 Cùng với xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người khẳng định: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội”[13]. Xây dựng nhà nước, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì điều quan trọng hàng đầu là nhà nước đó phải là nhà nước của nhân dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Người khẳng định: "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"[14]. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công-nông-trí do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, phải xây dựng được bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực.

2.3 Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

Theo Người, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân tộc, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Người khẳng định: "Toàn dân ta phải đoàn kết rộng rãi hơn nữa trong Mặt trận Tổ quốc. Cán bộ phải đoàn kết nhất trí, giữ vững đạo đức cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước. Các tầng lớp nhân dân ta - công nhân, nông dân, lao động trí óc, các nhà công thương, đồng bào thiểu số - ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà; giúp chính quyền giữ gìn trật tự, an ninh, tăng cường đoàn kết, giúp sức và giám đốc cán bộ đẩy mạnh mọi công tác.

          Lực lượng của nhân dân ta mạnh mẽ.

           Sức sống của chế độ ta dồi dào.

          Tính chất của chính quyền ta tốt đẹp

Toàn dân ta từ Nam đến Bắc đoàn kết chặt chẽ, tin tưởng một lòng đấu tranh bền bỉ; lại có các nước anh em khảng khái giúp đỡ, các nước bầu bạn ủng hộ, đồng tình. Chúng ta nhất định vượt qua được mọi khó khăn. Nước nhà ta nhất định sẽ thống nhất. Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh"[15].

PGS.TS. Nguyễn Thế Thắng - Học viện Chính trị Hồ Chí Minh khu vực I

-----------------------

Ghi chú:

[1] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H.2011, tr. 245.

[2] C.Mác và Ăngghen, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.1995, tr. 611.

[3], [7],[15] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Sđd, tr. 376, tr.537, tr. 424-425.

[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 14, Sđd, tr. 97-98.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 86.

[6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Sđd, tr. 286.

[8] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, Sđd, tr. 67.

[9],[12] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 15, Sđd, tr. 224, tr.612.

[10]  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 236.

[11] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Sđd, tr. 289.

 [13] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Sđd, tr. 374.

[14] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Sđd, tr. 232.

tcnn.vn

Video liên quan

Chủ Đề