Thị giả có nghĩa là gì

Ý nghĩa của từ Thị giả là gì:

Thị giả nghĩa là gì? Dưới đây bạn tìm thấy một ý nghĩa cho từ Thị giả Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa Thị giả mình


2

  0


A senior bonze's attendant.



Cận thị giả có những biểu hiện gần giống tật cận thị,  là căn bệnh khiến nhiều người lầm tưởng và đưa ra phác đồ điều trị sai lầm dẫn đến những hậu quả khó lường ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của mắt.

Tình trạng cận thị giả [hay còn gọi là giả cận thị] khá phổ biến ở nhiều trẻ em và đối tượng nhân viên văn phòng. Rất nhiều trường hợp đo mắt ở cửa hàng kính và đang phải đeo kính cận do nhầm lẫn bị cận thị.

Cận thị giả là gì?

Cũng giống như các thuật ngữ y khoa khác như giả u, giả mang thai, giả nghén…., cận thị giả hàm ý không phải là bệnh lý cố hữu mà là những rối loạn thoáng qua rất giống một bệnh hay một hội chứng nào đó.

Cận thị giả được định nghĩa như sau:

Đó là sự chuyển thể tạm thời, không liên tục về mặt khúc xạ của con mắt sang tình trạng cận thị.

Khi đó ảnh của vật được nhìn sẽ hội tụ trước võng mạc [giống như trong cận thị] do sự co thắt thóang qua của cơ thể mi, làm tăng công suất khúc xạ của mắt.

Những rối loạn này ở hai dạng: Thực thể hay cơ năng. Thực thể là do hệ thần kinh phó giao cảm bị kích động quá mức. Cơ năng là do mệt mỏi thị giác hay khó chịu nhất thời của mắt. Rất hay gặp trên sinh viên trong mùa thi hay những người làm nghề dùng mắt quá nhiều.

Trên những người tham gia thực nghiệm tình nguyện, khi bắt họ nhìn gần liên tục trong 7 tiếng sẽ có khoảng 60% bị cận thị ít nhất là -0,5D.

Nguyên nhân gây cận thị giả

Nguyên nhân gây cận thị giả là do làm việc liên tục  liên tục với cự ly gần trong thời gian dài khiến mắt phải điều tiết liên tục dẫn đến mắt nhức mỏi, đau đầu, chảy nước mắt; do chủ quan của người bệnh, khi mắt có hiện tượng mờ đi không đến khám tại các phòng khám chuyên khoa mắt mà đi cắt kính tại các cửa hàng kính; do cơ thể mắc một số chứng bệnh như chấn thương mắt, viêm thể mi, dùng atropine trong thời gian dài…

Trong đó, việc chủ quan không đi khám mà tự ý cắt kính của người bệnh là nguyên nhân chính khiến bệnh ngày càng tiến triển.

Đối với các bác sĩ chuyên khoa mắt, việc chẩn đoán cận thị giả không khó nhưng chỉ dựa vào các chỉ số của máy tại các cửa hàng kính thì sẽ rất khó phát hiện chính xác bệnh. Hiện nay với tình trạng quản lý các cửa hàng kính thuốc còn nhiều vấn đề bất cập sẽ gây hậu quả cho khách hàng.

Các cửa hàng với áp lực doanh thu, cộng với đa số những người làm tại các cửa hàng kính thuốc chủ yếu là các kỹ thuật viên nên việc phát hiện cận thị giả là không thể.

Hầu hết khách hàng đến sau khi đo thị lực sẽ được chỉ định cắt kính để đeo, kể cả cận thị giả. Điều này làm cho mắt lười điều tiết và phụ thuộc vào kính dẫn đến tật cố hữu.

Triệu chứng của bệnh cận thị giả

Một vài bạn trẻ thấy mắt nhìn kém hẳn sau đợt thi. Có người thấy mỏi mắt, nhức mắt khi làm việc nhiều, đeo thử kính cận của người khác thấy sáng hơn. Rất nhiều người sẽ nghĩ là họ bị cận thị, thực sự không phải vậy.

Mặc dù phương pháp điều trị cận giả khá đơn giản nhưng các bác sĩ khuyến cáo nếu không kịp thời có chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt điều độ cho mắt thì rất có khả năng cận giả sẽ trở thành cận thật.

Triệu chứng cận thị giả cũng giống cận thị thật như mắt mỏi, nhìn xa không thấy, nhức đầu, chảy nước mắt và khó khăn khi ghi chép sau một thời gian dài làm việc trong cự ly gần. Những trường hợp này đến khám tại các cửa hàng cắt kính thì rất khó để phân biệt cận thị giả hay thật vì ở đó hầu hết người làm ở cửa hàng kính chỉ là kỹ thuật viên, không đủ chuyên môn để phân biệt.

Mặt khác, phụ huynh nên biết khi đo kính cho người cận thị, loạn thị thì việc nhỏ thuốc điều tiết mắt để kiểm tra là bắt buộc. Nhưng thực tế hầu hết các cơ sở khám mắt tư nhân, các cửa hàng bán kính đều bỏ qua công đoạn này vì sợ mất thời gian. Do không làm đúng quy trình nên kết quả kiểm tra thường không chính xác.

Điều trị bệnh cận thị giả

Theo tìm hiểu nhiều phòng khám các bệnh về mắt, cứ vào mỗi đợt thi, số học sinh, sinh viên, hay người làm văn phòng phải đi khám vì các vấn đề về mắt tăng vọt. Đặc biệt là tình trạng mệt mỏi, nhức mắt, thậm chí chảy nước mắt.

Rất nhiều người mắt vốn không có vấn đề gì nhưng sau một thời gian tập trung ôn thi, hay công việc căng thẳng phải ngồi máy tính nhiều sẽ thấy hiện tượng mắt mỏi, nhìn xa kém hơn, phải nheo mắt mới thấy rõ… đi đo mắt tại các cửa hàng bán kính thì được chẩn đoán là cận thị, dẫn đến đeo kính oan.

Chữa cận thị giả rất đơn giản nếu được phát hiện đúng cách và điều trị đúng lúc. Để điều trị cận thị giả, các bác sĩ lưu ý:

  • Với trường hợp cận thị giả do làm việc ở khoảng cách gần, bạn chỉ cần nhỏ thuốc nhỏ mắt kết hợp nghỉ ngơi, chế độ ăn uống hợp lý sẽ giúp mắt trở lại thể trạng bình thường.
  • Nếu mắt ở thể nặng, bệnh nhân sẽ được dùng kính chuyên dụng để giúp quá trình điều tiết ở mắt nhẹ nhàng hơn, ngừng đeo khi mắt đã được phục hồi.
  • Để tránh tình trạng mệt mỏi vì làm việc trong thời gian dài cho mắt, cứ làm việc 1 giờ nên cho mắt nghỉ ngơi 5-10 phút bằng các động tác massage cho mắt hoặc nhìn ra những khoảng màu xanh để mắt thư giãn.
  • Khi làm việc giữ khoảng cách hợp lý, tối ưu cho mắt, không nhìn quá gần vào vật thể.
  • Bổ sung các loại thực phẩm chứa vitamin A, B, D… trong thực phẩm và thuốc nhỏ mắt để mắt chống mệt mỏi và thoái hóa.

Các bác sĩ khuyến cáo, cận thị giả không khó chữa, nhưng nếu không được điều trị đúng cách sẽ dẫn đến cận thị thật và nhiều hệ quả nguy hiểm cho mắt khác. Phụ huynh nên biết khi đo kính cho trẻ cận thị, loạn thị thì việc nhỏ thuốc điều tiết mắt để kiểm tra là bắt buộc.

Khi bị cận thị giả, người bệnh không phải đeo kính, chỉ cần để cho mắt nghỉ ngơi hợp lý, sau một thời gian mắt sẽ tự điều tiết lại như bình thường. Tuy nhiên, nếu không được thì sẽ phải dùng kính mắt chuyên dụng và bác sĩ sẽ quyết định khi nào ngừng đeo kính.

Đối với người trẻ không bị cận mà vẫn phải đeo kính khiến thị lực không tăng, gây nhức mắt, mỏi mắt, dần dần mất thị giác 2 mắt, dẫn đến bị cận thị nặng, bong võng mạc, thậm chí sẽ bị mù. Do đó khi khám thị lực cho trẻ nên thận trọng, chẩn đoán đúng tật khúc xạ.

Khi thấy con mình có biểu hiện mắt nhìn không bình thường, phụ huynh nên cho con đến cơ sở y tế có uy tín đo khám. Phụ huynh cần lưu ý không nên đưa con đi khám ở các phòng khám tư nhân không đảm bảo chuyên khoa về mắt.

Khám mắt định kỳ là biện pháp hữu hiệu nhất để phát hiện chính xác các tật về mắt, từ đó có cách điều trị phù hợp. Muốn có một đôi mắt khỏe đẹp thì chúng ta phải biết quan tâm và có chế độ chăm sóc hợp lý, đúng cách.

Các bác sĩ cũng đưa ra lời khuyên với những người thường xuyên làm việc với máy vi tính, cứ 45 phút lại cho mắt nghỉ ngơi bằng cách nhìn ra không gian thoáng, rộng khoảng vài phút. Khi mỏi mắt, có thể dùng tay mát xa nhẹ vùng quanh mắt…

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

BS CKII Nguyễn Đỗ Thanh Lam

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 2

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 3

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 4

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 5

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 6

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 7

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 8

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 9

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 10

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 11

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 12

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 13

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 14

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 15

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 16

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 17

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 18

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 19

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 20

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 21

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 22

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 23

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Page 24

Tôn giả A Nan [Ananda] là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm [đa văn đệ nhất]. Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lànhhạnh phúc.

A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya [chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ], con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana [Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật]. Trong quan hệ dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về Ca Tỳ La Vệ [Kapilavastu] để thăm vua cha và thân quyến lần đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật. Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đườngđức Thế Tôn đang đi.

Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh Dự Lưu [Sotàpatti - Tu đà hoàn] -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp độ giải thoát [Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán].

Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ; 2. Không dùng thực phẩmthiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.

Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của dòng họ Matànga [Ma Đăng Già] và nhiều chi tiết sinh động được ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó. 

Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữuvô thường, luôn biến dịch. Đã từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ, con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh tối thượng" [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp [Maha Kasyapa] chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." [Như thị ngã văn], mà mỗi khi tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.

Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thựcbền lâu; tác phong cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập [Anguttara Nikàya - Tăng Chi]. Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.

Source: BuddhaSasana Home Page

Video liên quan

Chủ Đề