Thi pháp văn học trung đại lớp 10

Đề: Thi pháp văn học trung đại được văn học thời kì này thể hiện như thế nào? Cùng văn mẫu phân tích trong bài viết dười

Bài làm Thi pháp văn học trung đại

Bất cứ một dòng, một bộ phận hay một thời kì văn học nào cũng xây dựng cho nó một hệ thống thi pháp nhất định. Trải qua mười thế kỉ, văn học trung đại cũng đã hoàn thiện cho mình một hệ thống thi pháp đặc trưng.

Thi pháp văn học trung đại được thể hiện phong phú, đa dạng trên nhiều phương diện mà trước hết là sự đối lập giữa nhã và tục. Nhìn chung văn học trung đại rất đề cao cái nhã. Nhã được biểu hiện ở sự uyên bác về tri thức. Các sáng tác văn học thời kì này, từ thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến thơ, truyện thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu… thể hiện hàng loạt những tri thức sách vở, những thi liệu, điển cố điển tích lấy từ Thánh kinh hiền truyện của Nho gia, của Bách gia chư tử, từ các bộ kinh Phật, từ sách vở của Lão Trang. Với một tác phẩm ngắn gọn mà rất Nôm như bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ vẻ nhã trong quan niệm “vô vi”:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. 

Hai câu thơ gợi lên cuộc sống đơn sơ, giản dị, đạm bạc của bậc ẩn sĩ, nhưng đạm mà lại thanh, lại thoát tục bởi con người đã thuận theo tự nhiên mà sống.

Nhã trong văn học trung đại còn được biểu hiện qua hình thức ngôn từ. Văn học trung đại thường lựa chọn những ngôn từ, những cách diễn đạt diễm lệ, tránh lối nói thông tục, nếu có thì dùng ngụ ý, ám chỉ chứ ít khi nói thẳng. Chẳng hạn, miêu tả Thúy Kiều khi tắm, Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ thật đẹp, thật trang nhã thay cho cách nói nôm na da trắng vỗ bì bạch như vế đối của nữ sĩ Hồng Hà:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.

[Truyện Kiều]

Tất nhiên, bên cạnh việc đề cao cái nhất, trong văn học thời kì này vẫn xuất hiện cái tục mà tác giả điển hình cho việc dẫn cái tục vào văn chương là Hồ Xuân Hương. Những bài thơ Vịnh cái quạt hay Hang Các Cớ.. của bà ít nhiều có yếu tố ức trong đó nhưng rõ ràng nó được dùng để “giảng thanh” hoặc để thể hiện cá tính độc đáo của thi nhân.

Thi pháp văn học trung đại còn được thể hiện ở tính quy phạm khắt khe của thể loại. Mỗi thể loại văn học trung đại có những yêu cầu mang tính đặc trưng mà nhà văn, nhà thơ khi sáng tác phải tuân thủ. Các tác giả văn học trung đại Việt Nam đã sử dụng các thể loại sẵn có của Trung Quốc và xem đó như là khuôn mẫu đã định hình về bố cục, cấu trúc, cùng niêm luật, vần đối chặt chẽ, thống nhất, mà người sáng tác không được phép phá vỡ như cáo, hịch, phú Đường luật, văn tế theo lối phú Đường luật, thơ Đường luật… Tuy vậy, không thể phủ nhận rằng trong quá trình tiếp thu, nhiều tác giả tài năng luôn thể hiện ý thức Việt hóa các thể loại văn học của Trung Quốc. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi luôn có những câu lục ngôn xen vào các câu thất ngôn một cách tài tình trong bài thơ Đường luật:

-Rồi hóng mát thuở ngày trường [..]

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

[Cảnh ngày hè]

– Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.

[Thuật hứng, bài 24]

Hay từ thể phú viết bằng chữ Hán với chức năng tụng ca, phúng gián, chúng ta có phú Nôm với lời lẽ nôm na, mộc mạc; từ thơ Đường luật tỏ chí, chúng ta có lối thơ hài hước trào lộng dùng lời ăn tiếng nói hằng ngày…

Một phương diện khác góp phần thể hiện thi pháp văn học trung đại, chính là sự ít phân biệt về ngôn từ, phương thức biểu cảm giữa thể loại chức năng hành chính, lễ nghỉ và thể loại văn học nghệ thuật. Tình trạng này đã dẫn đến trạng thái văn ~ sử – triết bất phân trong các sáng tác thời kì trung đại. Vậy nên văn học thời kì này mới có những sáng tác lịch sử mang giá trị văn học như Đại Việt sử kí toàn thư [Ngô Sĩ Liên].

Không chỉ có vậy, thi pháp văn học trung đại còn là sự để cao các mẫu mực cổ xưa, thói quen sử dụng các yếu tố hình thức có sẵn, các điển tích, hình ảnh tượng trưng quen thuộc. Khi sáng tác, các tác giả thời trung đại thường vay mượn văn thi liệu, điển cố, điển tích lấy từ sách vở Thánh hiền và kinh sách của các tôn giáo. Sự vay mượn này được lặp lại nhiều đến nỗi thành những mô típ quen thuộc tạo nên tính ước lệ, tượng trưng trong văn học. Nói đến cây và hoa thì phải nhắc tới tùng, cúc, trúc, mai, sen.., nói đến con vật thì phải là long, li, quy, phụng; nói đến người thì ngư, tiều, canh,mục; nói đến hoa bốn mùa phải là xuân lan, thu cúc, hạ sen, đông mai; tả cảnh mùa thu thì phải là lá ngô đồng rụng, rừng phong thu..; nói đến thời gian phải là đêm năm canh, ngày sáu khắc.. Bởi sùng cổ nên ngay cả khi vị chủ tướng muốn khích lệ lòng yêu nước, lòng tận trung với chủ của các tướng sĩ dưới quyển thì nhất định những tấm gương trung thần nghĩa sĩ được chép trong sử sách Trung Quốc, tức đối phương, như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên.. phải được dẫn ra. Khi sáng tác, các tác giả còn vay mượn để tài, cốt truyện, mô típ, có khi cải biên cốt truyện để tạo nên một tác phẩm mới. Đây là sự tuân theo những kiểu mẫu, khuôn mẫu sẵn có đã thành công thức. Một loạt truyện Nôm Việt Nam như Nhị độ mai, Hoa tiên truyện, Đoạn trường tân thanh… là những ví dụ.

Một phương diện khác thể hiện thi pháp văn học trung đại chính là sự ưu tiên cho các chức năng hành chính, giáo huấn. “Văn dĩ tải đạo” [văn chương phải chuyên chở đạo lí] là quan niệm phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam. Đạo ấy là đạo lí của Thánh hiền nhưng cũng còn là đạo lí của nhân dân, mang tư tưởng thân dân. Thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu.. là những minh chứng nổi bật cho đặc điểm thi pháp đó.

Góp phần làm nên thi pháp văn học trung đại còn là sự coi nhẹ biểu hiện cá tính con người hay còn gọi là tính chất phi ngã. Văn học Việt Nam thời phong kiến thường để cao cái “ta” cộng đồng mà giấu đi cái “tôi” bản thể, giấu đi con người cá nhân. Nhưng rõ ràng ở một số tác giả tài năng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, cái “tôi” cá nhân trữ tình trong văn chương được bộc lộ khá đậm nét.

Có thể thấy văn học trung đại đã xây dựng cho mình một hệ thống thi pháp hết sức phong phú, đa dạng. Các đặc điểm thi pháp không làm hạn chế sự phong phú và phát triển của văn học Việt Nam. Văn học trung đại Việt Nam vận động theo hướng dân tộc hóa, dân chủ hóa. Sự xuất hiện của văn học Nôm và yếu tố dân gian cùng nội dung hiện thực đã làm cho các quy phạm dần dần bị lỏng lẻo, phá vỡ: Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định rằng với những đặc điểm thi pháp đó, văn học trung đại đã khiến chúng ta không thể nhận lầm sang các thời kì văn học viết sau này.

SoanBai123 » Soạn Văn » Soạn Văn Lớp 11 » Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 1

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam- phần 1

Mời các em học sinh tham khảo thêm bài viết:

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 2

A. ĐẶC TRƯNG THI PHÁP: HỆ THỐNG ƯỚC LỆ THẨM MỸ CỔ ĐIỂN:

  1. Ước lệ trong văn học nói chung:  

a. Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước lệ là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích qui ước và đúng với cách hiểu của cả cộng đồng.

b. Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, một dòng văn học nhất định.

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam- phần 1

      2. Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam: 

    a. Ước lệ, một đặc trưng thi pháp:

– Văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của văn học.

         – Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.

      b. Ước lệ bao gồm ba tính chất:

         – Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ.

         b.1: Tính uyên bác và cách điệu hóa cao đô: 

        – Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mênh danh là văn chương bác học [Văn học dân gian gọi là văn học bình dân]. Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.

        – Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:

                                            Thơ muốn viết đắn đo chẳng viết

                                                   Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?

– Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.

                                          Trước sau nào thấy bóng người

                                   Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông    

[Nguyễn Du]

                                        Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

                                        Dân gìau đủ khắp đòi phương.

        – Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa, “văn chương hóa”, Các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp.

            Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi, trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,… Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:

                                          Hài văn lần bước dặm xanh 

                                    Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

                                        Chàng Vương quen mặt ra chào

                                       Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa

    Tạo vật TN đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,…

                                          Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

                                          Dặm liễu sương sa khách bước dồn

[Bà Huyện Thanh Quan]

        – Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:

                                          Thoắt trông nhờn nhợt màu da 

                                         Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao ?

Con người Bùi Kiệm máu dê

                                       Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu !

                 Người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của chúng, mới tả thực.

           – Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa.

        – Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,…

        – Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá là “Đạo văn”. Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu gía trị.

– Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người chưa bao giờ “sống là mình”. Con người chỉ sống với không gian mà không sống cùng thời gian.

         Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân.

– Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.

            – Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà,… Chỉ có điều, do tính qui phạm NT; nên sự khác biệt trong tư tưởng và phong cách NTt của các cây bút ấy chỉ là những biến thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng VH bấy giờ mà thôi.

Xem tiếp: Phần 2, Phần 3, Phần 4

Video liên quan

Chủ Đề