Tiểu luận về hoạt động ngân hàng

33
493 KB
2
212

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM MÔN TÍN DỤNG 1 LỚP NH_T03 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh GVHD: THS. BÙI DIỆU ANH NHÓM THỰC HIỆN: ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH TRẦN NỮ QUẾ NHI THẠCH THỊ YẾN NHI TẠ HỒNG QUANG NGUYỄN QUỐC THẮNG LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế thị trường luôn ẩn chứa rất nhiều rủi ro, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vai trò của NHNN vì thế lại càng trở nên quan trọng. Để có thể điều tiết cung cầu tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền thì CSTT phải đúng hướng và phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô. Trước đây, việc điều hành CSTT tập trung chủ yếu vào các công cụ trực tiếp. Ngày nay, các công cụ gián tiếp như lãi suất tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngày càng tỏ ra hiệu quả. Trong đó, nghiệp vụ thị trường mở giữ vị trí quyết định. Thông qua việc mua vào, bán ra các GTCG, NHNN kiểm soát nguồn cung tiền tệ trên thị trường, tác động trực tiếp đến dự trữ ngân hàng, tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó quản lý, chi phối thị trường, làm cho CSTT được thực hiện theo đúng mục tiêu. Nghiệp vụ thị trường mở khắc phục được hạn chế của lãi suất tái chiết khấu và ngày càng trở nên đắc lực khi thị trường tài chính phát triển, mở rộng và hoàn thiện. Tuy nhiên, khi áp dụng ở Việt Nam, do một số nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, nghiệp vụ thị trường mở chưa phát huy được hết tác dụng của mình. Trong phạm vi ngắn gọn, bài tiểu luận này sẽ điểm qua các diễn biến tiêu biểu của nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong thời gian qua, xác định những thành tựu, hạn chế, và nguyên nhân, đồng thời từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam. NHÓM THỰC HIỆN 1 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 MỤC LỤC................................................................................................................. 2 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT....................................................................................4 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ..................................5 1.1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở................................................................5 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển...............................................................5 1.1.2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.........................................................5 1.2. Cơ chế tác động của OMO..............................................................................6 1.2.1. Tác động về mặt lượng [cơ số tiền tệ]......................................................6 1.2.2. Tác động mặt giá [lãi suất].......................................................................6 1.3. Thành viên tham gia thị trường mở.................................................................7 1.3.1. Ngân hàng trung ương..............................................................................7 1.3.2. Các đối tác của ngân hàng trung ương......................................................7 1.4. Các loại GTCG sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.................8 1.4.1. Các GTCG được sử dụng trong các giao dịch với NHNN........................8 1.4.2. Các GTCG quy định tại khoản 1 trên đây phải có đủ các điều kiện sau...9 1.5. Cơ chế hoạt động của thị trường mở...............................................................9 1.5.1. Các phương thức mua hoặc bán GTCG....................................................9 1.5.2. Phương thức đấu thầu GTCG trong nghiệp vụ thị trường mở..................9 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM...........................................................................11 2.1. Doanh số giao dịch........................................................................................11 2.2. Tần suất giao dịch.........................................................................................12 2.3. Thực tế tình hình giao dịch trên thị trường mở từ đầu năm 2011..................13 3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.....................................................17 3.1. Những thành tựu đã đạt được........................................................................17 3.2. Hạn chế.........................................................................................................20 3.3. Nguyên nhân.................................................................................................22 4. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM....................................................................................................................... 23 KẾT LUẬN.............................................................................................................28 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................29 DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN......................................................................30 2 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHTW: Ngân hàng Trung ương NHNN: Ngân hàng Nhà nước NHTM: Ngân hàng thương mại NHTMNN: Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần TCTD: Tổ chức tín dụng GTCG: Giấy tờ có giá TPKB: Tín phiếu kho bạc CSTT: Chính sách tiền tệ OMO: Nghiệp vụ thị trường mở [Open Market Operations] BoE: Ngân hàng Trung ương Anh [Bank of England] MS: mức cung tiền [Money Supply] 3 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 1.1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Nghiệp vụ thị trường mở [OMO - Open Market Operations] được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Trung ương Anh [BoE - Bank of England] từ những năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất chiết khấu của BoE được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, nó tỏ ra kém hiệu lực khi khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất chiết khấu. Do đó BoE phải tìm kiếm công cụ hiệu quả hơn để diều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn. Cách thức đầu tiên được áp dụng nhằm tăng lãi suất trên thị trường là: Bán chứng khoán Chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một nó vào một ngày xác định trong tương lai; vay trên thị trường được đảm bảo bằng chứng khoán Chính phủ; bán hẳn các chứng khoán Chính phủ; vay trực tiếp từ các NHTM. Bằng cách này, lượng tiền trên thị trường giảm đi tương ứng với khối lượng vay hoặc bán chứng khoán, vì thế làm tăng lãi suất thị trường. Vào năm 1913, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [FED] cũng sử dụng OMO như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong và sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, OMO được sử dụng để huy động nguồn lực tài trợ cho chi phí quân sự và khắc phục tổn thất. Đến năm 1920, OMO vẫn được xem là công cụ bổ trợ cho lãi suất tái chiết khấu. Nhưng hiệu quả và tầm quan trọng dần tăng lên và ngày nay OMO đã trở thành một công cụ đắc lực của Chính phủ khi điều tiết nền kinh tế. Điều này xuất phát từ : hạn chế của lãi suất tái chiết khấu; sự mở rộng và hoàn thiện của thị trường tài chính; sự gia tăng về lượng của chứng khoán Chính phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao. 1.1.2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở Tùy theo quy định mà mỗi quốc gia có một định nghĩa riêng về OMO, nhưng nói chung OMO là hành vi giao dịch các chứng khoán của NHTW trên thị trường mở. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và công cụ giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về các loại giấy tờ và thời hạn của chúng. Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm chứng khoán nợ ngắn hạn và chỉ có các TCTD được phép tham gia. Như vậy, ở Nhật thị trường mở là một 4 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ và Đức cho phép giao dịch cả chứng khoán dài hạn. Tại Việt Nam, theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN, nghiệp vụ thị trường mở là việc NHNN thực hiện việc mua, bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá với các tổ chức tín dụng [TCTD]. 1.2. Cơ chế tác động của OMO 1.2.1. Tác động về mặt lượng [cơ số tiền tệ] Hành vi mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay, cuối cùng tác động đến mức cung tiền. NHTW bán Dự trữ NHTM giảm Khả năng cho vay giảm Khối lượng tín dụng giảm MS giảm 1.2.2. Tác động mặt giá [lãi suất] Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau: Cung TPKB tăng Giá TPKB giảm Lãi suất thị trường tăng tăng NHTW bán TPKB Dự trữ NH giảm Đầu tư giảm Cung của quỹ cho vay giảm Lãi suất ngắn hạn tăng Lãi suất thị trường tăng Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế cũng được xác định. Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu 5 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng. Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. 1.3. Thành viên tham gia thị trường mở 1.3.1. Ngân hàng trung ương NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại OMO và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua bán các loại GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu xác định của nó. 1.3.2. Các đối tác của ngân hàng trung ương 1.3.2.1. Các ngân hàng thương mại Các NHTM chiếm phần lớn trong số các thành viên của thị trường mở và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên 2 phương diện độ tin cậy và tính hiệu quả. Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán đồng thời đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi. 6 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Sự tham gia của các NHTM trên thị trường mở có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện CSTT vì các nguyên ngân sau: - NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng khắp. NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển - NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ. 1.3.2.2. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Tại một số quốc gia, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được tham gia OMO. Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm … coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập thông qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán các GTCG. 1.3.2.3. Các nhà giao dịch sơ cấp Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào OMO với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp có thể là các NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. Thực tế ở nhiều nước, 70% giao dịch can thiệp của NHTW trên thị trường mở được thực hiện thông qua các nhà giao dịch sơ cấp. Khi đó, NHTW chỉ thực hiện mua bán GTCG với các nhà giao dịch sơ cấp. Và để thực hiện được vai trò này, các nhà giao dịch sơ cấp phải có nguồn vốn đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quy định của NHTW và phải sẵn sàng thực hiện vai trò người tạo lập thị trường trong tất cả các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc. Tại Việt Nam, các đối tác của NHNN chính là các TCTD thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD có đủ các điều kiện sau: - Có tài khoản tiền gửi tại NHNN [Sở Giao dịch NHNN hoặc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố]. - Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia OMO gồm máy FAX, máy tính có nối mạng internet. - Có giấy đăng ký tham gia OMO. NHNN cấp giấy công nhận là thành viên tham gia thị trường mở cho các TCTD đáp ứng đủ các điều kiện. 1.4. Các loại GTCG sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở 1.4.1. Các GTCG được sử dụng trong các giao dịch với NHNN - Tín phiếu NHNN 7 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh - Trái phiếu Chính phủ, bao gồm :  Tín phiếu Kho bạc.  Trái phiếu Kho bạc.  Trái phiếu công trình Trung ương.  Công trái xây dựng Tổ quốc.  Trái phiếu Chính phủ do Ngân hàng Phát triển Việt Nam [trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển] được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành. Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm:  Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.  Trái phiếu do Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn. Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành. 1.4.2. Điều kiện để các loại GTCG được giao dịch trên thị trường mở: - Lưu ký tại NHNN - Thuộc quyền sở hữu hợp pháp của TCTD - Tổ chức phát hành không được sử dụng các loại GTCG do tổ chức đó phát hành để tham gia giao dịch với NHNN. 1.5. Cơ chế hoạt động của thị trường mở 1.5.1. Các phương thức mua hoặc bán GTCG 1.5.1.1. Giao dịch không hoàn lại [mua hoặc bán hẳn] Các giao dịch này bao gồm nghiệp vụ mua, bán theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các NHTM là dài hạn và GTCG phải là công cụ nợ có mức rủi ro thấp. 1.5.1.2 Giao dịch có hoàn lại Phương pháp này có nghĩa là chỉ mua, bán tạm thời các GTCG. Nó tồn tại dưới hai dạng : Mua bán theo hợp đồng mua lại : là việc NHTW ký hợp đồng mua GTCG với người giao dịch và người đó đồng ý mua lại vào một ngày xác định trong tương lai với mức giá thỏa thuận. Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược NHTW bán GTCG và cam kết sẽ mua lại trong tương lai với giá thỏa thuận. 8 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh 1.5.2. Phương thức đấu thầu GTCG trong nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Tại mỗi phiên đấu thầu, NHNN chỉ áp dụng một phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. 1.5.2.1 Đấu thầu khối lượng NHTW cho người giao dịch biết trước lãi suất và khối lượng giao dịch. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng ký khối lượng giao dịch trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước. Việc phân phối sẽ được tiến hành như sau : nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHTW cần bán thì toàn bộ đơn đặt thầu đều được phân phối, nếu lớn hơn thì phải phân bổ theo tỷ lệ đặt thầu. 1.5.2.2 Đấu thầu lãi suất Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia OMO trên cơ sở khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng GTCG mà NHTW cần mua hoặc cần bán. NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng GTCG cần mua hoặc cần bán. Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng GTCG cần mua hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán. Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất [trường hợp NHTW bán] và lãi suất dự thầu thấp nhất [trường hợp NHTW mua] mà tại đó đạt được khối lượng GTCG NHTW cần mua hoặc cần bán. Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc theo lãi suất riêng lẻ: Lãi suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán. Lãi suất riêng lẻ : khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán. Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc : Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu. Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của - 9 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD đó. 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ OMO vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Công cụ OMO liên tục được NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của NHNN. Điều này thể hiện một số mặt sau đây: 2.1. Doanh số giao dịch Doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm. Bảng 2.1. Tổng doanh số trúng thầu OMO qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Doanh số trúng thầu Năm Tốc độ Tổng Mua Mua có Bán Bán có số hẳn kỳ hạn hẳn kỳ hạn 2000 1.904 480 874 550 2001 3.934 60 3.254 570 2002 9.146 7.246 2003 21.184 2004 Doanh số bình quân tăng trưởng [%] 112 50 82 106,7 1.900 108 132,5 9.844 11.340 198 131,6 61.936 60.986 950 504 192,4 2005 102.479 100.679 1.100 649 65,5 2006 112.634 86.302 26.332 727 9,9 2007 123.521 88.257 35.264 749 9,7 2008 1.037.658 947.205 78.431 2581 740,1 700 12.022 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng và mà còn bán GTCG để hút tiền nhàn rỗi khi thị trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. 10 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Doanh số trúng thầu OMO tăng mạnh qua các năm, qua đó tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như các điều kiện tiền tệ. Doanh số trúng thầu tăng nhanh bởi các phiên OMO đã được tổ chức thường xuyên hơn, và doanh số giao dịch từng phiên tăng lên. Doanh số mua vào qua OMO tăng nhanh qua các năm từ khi khai trương đến nay và nhìn chung tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng doanh số giao dịch OMO. Điều này chứng tỏ sự thay đổi của NHNN trong điều hành CSTT và diễn biến thị trường thường xuyên thiếu vốn khả dụng. Doanh số trúng thầu bình quân của từng phiên cũng tăng tăng lên qua các năm. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng. 2.2. Tần suất giao dịch Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức với tần suất 10 ngày/phiên. Từ ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ 2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Từ năm 2006, số lần giao dịch lại một lần nữa được tăng lên 5 phiên/tuần Bảng 2.2. Số lượng các phiên giao dịch OMO Số phiên mua 11 Số phiên bán Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Năm Số phiên Mua hẳn Mua có kỳ hạn Bán hẳn Bán có kỳ hạn Tần suất giao dịch 2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên 2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên 2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên 2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên 2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên 2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên 2006 155 0 148 7 0 1 tuần/5 phiên 2007 165 0 153 7 5 1 tuần/5 phiên 2008 402 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNN chủ yếu thực hiện các giao dịch nhằm cung ứng vốn khả dụng cho TCTD. Các phiên giao dịch nhằm hấp thụ vốn dư thừa của hệ thống ngân hàng được tổ chức rất ít, điều này xuất phát từ thực tế của hệ thống ngân hàng là thường xuyên thiếu hụt vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng và thanh toán của nền kinh tế. 2.3. Thực tế tình hình giao dịch trên thị trường mở từ đầu năm 2011 Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn có thể nói là cực kỳ khó khăn và nhiều bất ổn. Đó là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, và gần đây nhất là việc hàng loạt các nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công. Tình hình trên đã tác động không ít đến Việt Nam. Giá cả biến động, lạm phát tăng cao, giá vàng tăng nhanh, đồng tiền mất giá, người dân đang đổ xô tìm kiếm một kênh an toàn hơn để “ẩn mình”. Số dư tiền gửi tại các ngân hàng [nhất là ở các ngân hàng vừa và nhỏ] liên tục giảm làm cho ngân hàng khó lòng đảm bảo được khả năng thanh khoản của mình. Với vai trò điều hành CSTT, bảo đảm nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đi theo đúng hướng, trong thời gian vừa qua, NHNN đã thông qua thị trường mở can thiệp vào nền kinh tế với một loại các chính sách và biện pháp chặt chẽ để ổn định nền kinh tế, giải quyết khả năng thanh khoản cho các NHTM, kiềm chế lạm phát… Thống kê từ đầu năm nay đến hết tháng 3/2011, NHNN đã bơm ra thị trường mở 1.285.146 tỷ đồng, trong khi hút về 1.202.214,1 tỷ đồng. Như vậy, mức bơm ròng đạt 82.931,9 tỷ đồng. Số liệu cụ thể được thể hiện tổng hợp qua bảng dưới đây: 12 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Bảng 2.3. Tình hình hoạt động thị trường mở 6 tháng đầu năm 2011 Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Qua bảng 2.3 cho thấy trong tháng 4/2011, NHNN cũng đã bơm ra thị trường mở 519.695,7 tỷ đồng và hút về 453.002,7 tỷ đồng. Mức bơm ròng là 66.693 tỷ đồng. Trong 2 tuần đầu tháng 4/2011 [từ 4/4 đến 15/4], sau khi nâng lãi suất thị trường mở từ 12% lên 13%, NHNN liên tục bơm tiền qua thị trường này nhưng với khối lượng dè chừng. Nhu cầu vay trên thị trường mở vẫn lớn khi tỷ lệ đăng kí/ chào thầu ở mức gần 230%. Trong nửa đầu năm 2011, dấu ấn thắt chặt tiền tệ của NHNN thể hiện rõ khi NHNN đã tiến hành 2 lần điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu từ 7% lên 12% và đang dừng lại ở mức 13%. Chưa dừng lại ở đó, lãi suất tái cấp vốn cũng đã được điều chỉnh 5 lần liên tiếp [ 9% → 11% → 12% → 13% → 14% → 15%], đạt tới mức kỷ lục của lãi suất tái cấp vốn là 15% vào năm 2008, còn lãi suất qua thị trường mở lại được điều chỉnh tới tận 7 lần [ 10% → 10.5% → 11% → 12% → 13% →14% → 15% → 14%] vượt qua mức cao nhất năm 2008 là 13%. Trong 4 tháng gần đây, có thể thấy rõ ràng nhất là NHNN đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ khi liên tục hút ròng trên thị trường mở. Nếu trước tháng 9 giao dịch trên thị trường mở chủ yếu là giao dịch với kỳ hạn 7 ngày thì từ ngày 12/9 kỳ hạn này đã tăng lên 14 ngày. Có thể thấy chủ trương của NHNN là muốn kéo dài thời gian đáo hạn giúp cho các NHTM có thể cải thiện khả năng thanh 13 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh khoản của mình trong bối cảnh hàng loạt các NHTM đang chạy đua lãi suất để thu hút tiền gửi. Có thể thấy lượng tiền bơm – hút của NHNN đang dần giảm về qui mô số lượng. Đặc biệt sau một thời gian co hẹp và sụt giảm thì trong giai đoạn từ 2/8 đến 9/9 thì lượng tiền ròng của NHNN qua thị trường mở bằng 0. Lượng tiền bơm vào đúng bằng lượng hút ra, OMO lúc này chỉ mang tính duy trì, hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM. OMO bị thu hẹp có thể là do trong ngắn hạn các NHTM giao dịch qua thị trường liên ngân hàng bằng các khoản vay qua đêm với lãi suất thấp hơn, các NHTM phần nào đảm bảo được thanh khoản cho mình nên dần hạn chế qua OMO. Do đó, với mức thanh khoản ở mức trung bình, việc huy động qua OMO nếu có chỉ là mang tính bắt buộc. Sau một thời gian cân bằng bơm hút, NHNN tiến hành bơm ròng vào OMO, hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng trong 1 khoảng thời gian [đặc biệt là bơm tiền giúp cho 5 ngân hàng đang kém thanh khoản nhất] trước khi NHNN lại tiến hành hút ròng vào đầu tháng 10 để tiếp tục thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của mình. Bên cạnh đó, để ngăn chặn các NHTM chạy đua lãi suất gây khó khăn cả cho hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp sản xuất, NHNN đã ban hành chỉ thị 02 thể hiện quyết tâm hạ lãi suất và giữ trần lãi suất huy động ở mức 14% để tạo điều kiện kéo lãi suất cho vay về mức 17 – 19%. Việc bơm tiền và 14 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh thực thi chỉ thị 02 đã giúp cho lãi suất liên ngân hàng, cũng như lãi suất huy động, cho vay giảm nhẹ và ổn định hơn. Các chính sách và hành động của NHNN qua OMO thời gian qua cho thấy NHNN đang theo đuổi 2 mục tiêu trong nhất quán trong điều hành chính sách của mình: + Tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ cho đến cuối năm và có khả năng qua năm 2012. + Việc tăng đồng thời 2 lãi suất lãi suất tái cấp vốn và lãi suất vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng khiến cho các NHTM chủ động hơn trong việc điều chỉnh và sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý Mặt khác, theo thống kế, trong năm 2011 sẽ có khoản 26.010 tỷ đồng trái phiếu chính phủ đáo hạn. Lượng tiền thu được từ số lượng trái phiếu này sẽ giúp các TCTD có thế cải thiện phần nào khả năng thanh khoản và tái đầu tư của mình. Trong cuối tháng 5, đầu tháng 6, NHNN đã mua vào khoảng 13.858 tỷ đồng trái phiếu chính phủ đáo hạn, phần nào giúp hạ nhiệt lãi suất liên ngân hàng. Với lượng tiền vào dồi dào nhưng đầu ra bị hạn chế, các NHTM quay trở lại cho vay trên thị trường liên ngân hàng làm lãi suất ngắn hạn giảm nhẹ, thêm vào đó các NHTM quay trở lại đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Việc liên tục từ giữa tháng 5 15 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh đầu đến tháng 6 có 3 phiên đấu thầu với tỷ lệ trúng thầu đạt hơn 95% và lãi suất trúng thầu giảm [ trung bình 12,5 – 13% kỳ hạn 3 – 5 năm] đã chứng minh điều này. Bước vào tháng 6, tỷ lệ trúng thầu giảm dần, và lãi suất trúng thầu cũng dần tăng lên. Điều này cũng dễ dàng giải thích được vì các NHTM vẫn chưa thật sự mặn mà với trái phiếu chính phủ khi hệ thống thanh khoản chưa thật sự ổn định. Tính hết tháng 6, NHNN đã huy động được tổng cộng 20.464,2 tỷ đồng từ trái phiếu chính phủ. Nhìn chung, trong các cuộc đấu thầu giai đoạn này, các trái phiếu có kỳ hạn ngắn như 2 năm ít được quan tâm hơn trái phiếu có kỳ hạn dài từ 3 – 5 năm vì khả năng thanh khoản của nó. Các NHTM sẽ dễ dàng chiết khấu các trái phiếu 3 -5 năm chưa tới ngày đáo hạn cho NHNN để bỏ sung lượng tiền cho mình. Từ giữa tháng 7, thị trường trái phiếu bắt đầu trầm lắng và co hẹp qui mô. Tỷ lệ trúng thầu và khối lượng trúng thầu đều giảm, lãi suất lại tăng [ở mức 12.3 – 12.5%]. Vào cuối tháng 7, trái phiếu của Ngân hàng chính sách xã hội có tỷ lệ trúng thầu là 0%, còn trái phiếu chính phủ chỉ đạt 22.5%. Điều nảy được giải thích là do lượng tiền dư thừa trong hệ thống NHTM và các TCTD đã bị thu hẹp do bị hút vào bởi các phiên đấu thầu rất thành công thời gian trước, thêm vào đó, các NHTM đang gặp rắc rối trong vấn đề thanh khoản, đang cần một lượng tiền bù đắp nên việc đầu tư vào trái phiếu là điều khó xảy ra. Trung tuần tháng 9, Bộ Tài Chính phê duyệt đề án “Cơ cấu hàng hóa trên thị trường trái phiếu chính phủ”. Theo đề án này sẽ thực hiện tái cấu trúc thí điểm các trái phiếu có kỳ hạn còn lại 2 năm nhằm khắc phục tình trạng đang diễn ra là trên thị trường đang tồn tại quá nhiều mã trái phiếu [37 mã] và mục tiêu đề ra là sẽ được cơ cấu lại, hóan đổi thành 6 – 8 mã với khối lượng của mỗi mã mới 5.000 – 6.000 tỷ đồng; tổ thực hiện sẽ có trách nhiệm thỏa thuận với trái chủ, tính toán và trình cho Bộ tài chính mức lãi suất phù hợp theo nguyên tắc trái chủ bán cho kho bạc nhà nước với mức lãi suất nào thì sẽ mua lại ngay với mức lãi suất đó. Tính từ đầu năm đến hết tháng 9, NHNN đã huy động được trên 50.000 tỷ đồng từ trái phiếu chính phủ thông qua đấu thầu trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội 3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 3.1. Những thành tựu đã đạt được Thứ nhất, cơ chế và quy trình hoạt động OMO không ngừng được cải tiến và hoàn thiện Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Công 16 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn trong các phiên giao dịch. Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Các GTCG được giao dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán. Quy trình thanh toán được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu [T+2] năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày [T+1] năm 2001 và từ năm 2002 việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu [T+0]. Từ tháng 5/2003, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh toán nhanh chóng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD. Tần suất giao dịch cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các TCTD. Ban đầu chỉ giao dịch 10 ngày/phiên, đến nay đã tăng lên 5 phiên/tuần. Thủ tục đấu thầu cũng được cải tiến. Từ ngày 15/12/2004, NHNN đã bắt đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho phép thành viên kết nối trực tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết kiệm chi phí đầu tư khi tham gia nghiệp vụ này. Điều này đã thu hút thêm nhiều thành viên tham gia thị trường, qua đó nâng cao vai trò điều tiết của OMO. Các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở đã tăng lên về số lượng và đa dạng về loại hình. Hai năm 2008 - 2009 khoảng 50 - 60% các TCTD được công nhận là thành viên thị trường mở; năm 2010, các thành viên tham gia tích cực hơn, có phiên số lượng thành viên tham gia là 40; năm 2011, các thành viên tham gia cao nhất trong một phiên đã lên tới 44 thành viên. Xuất phát từ nhu cầu vốn khả dụng 6 tháng đầu năm và các điều kiện tham gia thị trường của các TCTD, cho thấy các TCTD có đủ điều kiện đã tham gia và đều có khả năng trúng thầu. Điều này càng khuyến khích các TCTD nắm giữ GTCG và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thứ hai, OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT và thực hiện mục tiêu CSTT. Việc NHNN mua bán GTCG thông qua OMO đã góp phần điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD theo mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Nhất là trong thời điểm các TCTD gặp khó khăn về vốn khả dụng, OMO đã được kết hợp sử dụng đồng bộ với các công cụ khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, nghiệp vụ cho vay cầm cố nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD. 17 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Tỷ trọng doanh số mua qua OMO trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của NHNN qua các kênh [tái cấp vốn, OMO và hoán đổi ngoại tệ] ngày càng tăng, từ khoảng 45% năm 2001 lên 75% năm 2003 và khoảng 82% năm 2004. Điều này cho thấy vai trò điều tiết vốn khả dụng của OMO ngày càng đóng vị trí quan trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2011 nói riêng và giai đoạn 2008 - 2011 nói chung, NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở. cùng với các công cụ CSTT khác, bước đầu đã kiềm chế lạm phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của CSTT. Lượng tiền cung ứng và rút về của thị trường mở có sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ khác của CSTT nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT. Cùng với thị trường mở, NHNN vẫn duy trì các công cụ khác của CSTT như chính sách tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc. Kết quả đạt được rất khả quan. Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đạt gần 8,32%, thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái 8,96%, đang đi đúng hướng so với chỉ tiêu cả năm tăng dưới 20%. Nhìn chung, việc điều hành OMO đã được kết hợp tương đối đồng bộ với các công cụ CSTT khác nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Lãi suất OMO đã kết hợp khá chặt chẽ với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường. Thứ ba, OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn vốn của các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc điều hành CSTT. Vì thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được đầy đủ và kịp thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu hiệu phản ánh một phần tình hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành CSTT. NHNN có thể đưa ra các nhận định về vốn khả dụng của các TCTD, cũng như xu hướng lãi suất thị trường thông qua việc tổng hợp, phân tích các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao dịch OMO, từ đó nắm bắt được các diễn biến về vốn của các TCTD để đưa ra các quyết định điều hành OMO và điều hành CSTT nói chung. Thứ ba, công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở cho việc quyết định giao dịch OMO ngày càng được tăng cường. Công tác dự báo vốn khả dụng của NHNN đã có nhiều cải thiện, kết quả dự báo trong kì dự báo là 1 tháng không có nhiều sai lệch về tổng thể, nhưng trong dự báo biến động hàng ngày còn nhiều sai số. Tuy nhiên, do việc thực hiện chào mua được thực hiện 2 phiên một ngày, nên việc chỉnh sửa sai lệch dự báo được tiến hành nhanh chóng. 18 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Thông tin về vốn khả dụng của các TCTD đã được phản ánh toàn diện và kịp thời hơn qua hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN. Các thành viên OMO đã có sự quan tâm, chú trọng hơn đối với việc theo dõi, phân tích và dự báo luồng vốn, thực hiện quản lý vốn ngày càng hiệu quả hơn để có thể tăng cường tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền tệ, nhất là nghiệp vụ OMO. Thứ tư, hoạt động OMO góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả. Hoạt động OMO giúp tăng tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD nắm giữ. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp cho các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính phủ, khuyến khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ. Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức đầu tư an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán, các TCTD có thể sử dụng các GTCG trong các giao dịch OMO cũng như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để quyết định việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm bắt tín hiệu về định hướng điều hành CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp. 3.2. Hạn chế Bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt động OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định: Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế Công cụ OMO chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các TCTD hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. Bên cạnh đó, mặc dù lãi suất thị trường mở mang tính thị trường nhưng NHNN vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo mang tính hành chính trong một số phiên giao dịch. Ngoài ra mối quan hệ giữa lãi suất OMO cũng như các lãi suất khác của NHNN và lãi suất thị trường chưa thật chặt chẽ. Doanh số giao dịch OMO còn thấp, nên mức độ tác động của OMO đến các điều kiện thị trường vẫn còn khá khiêm tốn, và cũng chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa hoạt động của thị trường mở với tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ đa mục tiêu kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, việc bơm tiền qua nghiệp vụ thị trường mở vẫn phải nằm trong chỉ tiêu lượng tiền cung ứng tăng thêm được Chính phủ phê duyệt. Do đó, phần nào làm giảm tính chủ động trong điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt 19 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Nam. Thứ hai, hoạt động thị trường mở còn một số bất cập - Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa NHNN và các thành viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao dịch với NHNN; - NHNN chưa chấp nhận hoàn toàn các chữ ký điện tử trong các giao dịch với NHNN. Hiện nay mặc dù bản đăng ký mua bán GTCG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng đều được ký duyệt chữ ký điện tử trên mạng, Sở Giao dịch NHNN yêu cầu phải có chữ ký của lãnh đạo NHTM trên bản in để chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử và chữ ký cấp phòng của NHTM được uỷ quyền. - Thời gian để rút được GTCG lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu [thường đến 5-7 ngày], do Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM phải đợi bản gốc văn bản của NHNN gửi đến mới hoàn tất thủ tục cho khách hàng. Thời gian qua, NHNN Việt Nam đã điều hành linh hoạt lãi suất nghiệp vụ thị trường mở gắn với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu trong điều hành chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy vẫn có thời điểm, NHNN lúng túng trong việc điều tiết lãi suất trên thị trường mở trong mối quan hệ với các loại lãi suất khác. Những năm gần đây và đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN thực hiện đấu thầu khối lượng với lãi suất công bố, điều này cũng hạn chế phần nào khả năng cạnh tranh của các TCTD. Dự báo cung - cầu vốn khả dụng của NHNN đôi khi chưa thật chính xác. Sai số trong dự báo thường không đồng đều nên khó khắc phục Thứ ba, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở không mang tính bắt buộc, vì vậy, số lượng thành viên tham gia thị trường mỗi phiên cũng khiêm tốn. Các NHTMCP tham gia không thường xuyên và không nhiều. Khả năng hỗ trợ vốn khả dụng chưa đáp ứng được yêu của tất cả các TCTD tham gia thị trường. Thực tế 6 tháng đầu năm 2011, đã có 49 thành viên tham gia thị trường, song tham gia giao dịch thường xuyên chủ yếu là các TCTD có quy mô lớn với ưu thế về điều kiện giao dịch. Các TCTD quy mô nhỏ hoặc chưa quan tâm, hoặc điều kiện tham gia thị trường yếu nên không thường xuyên tham gia thị trường. Do vậy, khi thiếu vốn khả dụng tạm thời họ phải vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng với lãi suất cao, từ đó gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ. Thứ tư, kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng 20 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kỳ hạn của các thành viên thị trường, mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian của các thành viên là khác nhau. Bên cạnh đó, NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một chiều nhất định [mua hoặc bán GTCG] trong một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua GTCG nên các TCTD cũng không thể tham gia nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của họ. Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182 ngày nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắn và tăng gánh nặng thanh toán cho các NHTM. 3.3. Nguyên nhân Thứ nhất, thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT. Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn nhiều khó khăn, dẫn đến hạn chế trong việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng. Bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế. Thứ hai, cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP. Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ thị trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm làm hạn chế đến tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO. Thứ ba, nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu quả của công cụ này. Số lượng thành viên thường xuyên tham gia OMO đã tăng nhưng vẫn còn hạn chế. Điều này không chỉ làm hạn chế sự tác động của OMO đến thị trường mà còn hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của TCTD. Thứ tư, hàng hoá của OMO tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa thực sự đa dạng hoá. Kỳ hạn của trái phiếu, tín phiếu Chính phủ - loại hàng hoá chủ yếu trong OMO - vẫn chưa thực sự đa dạng hoá, nhất là các tín phiếu kho bạc với thời hạn dưới 364 ngày ít được phát hành. Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều 21 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh kiện đầu tư vào GTCG, tạo hàng hoá tham gia OMO và các nghiệp vụ thị trường tiền tệ khác. Theo Quyết định số 11/QĐ-NHNN ngày 06/01/2010 đã có sự thay đổi quy định tỉ lệ chênh lệch giữa giá trị GTCG tại thời điểm định giá và giá thanh toán trong giao dịch mua bán có kì hạn giữa NHNN và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong Quyết định này, danh mục giấy tờ có giá tham gia thị trường mở chưa được mở rộng. Việc quy định thứ tự ưu tiên GTCG trong xét thầu nhằm khuyến khích các TCTD đầu tư dự trữ thanh khoản vào các GTCG có tính thanh khoản cao đã gây khó khăn cho các TCTD nhỏ nắm không nhiều trái phiếu Chính phủ. Thứ năm, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Hiệu quả của chính sách tiền tệ cần dựa trên cơ sở có sự phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa. Việc bội chi ngân sách có xu hướng gia tăng qua các năm đã tác động, làm hiệu quả của chính sách tiền tệ bị sụt giảm. 4. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM a] Bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở Để hoạt động trên thị trường thực sự sôi động thì một trong những điều kiện cần thiết là phải bổ sung thêm các loại hàng hoá cho thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN cần xem xét bổ sung thêm các loại GTCG được phép giao dịch trên thị trường mở. Muốn vậy, cần bổ sung các qui định vào chứng chỉ tiền gửi vào trong Luật Các công cụ chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại GTCG này. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý để thương phiếu có thể được giao dịch trên thị trường mở. Bên cạnh các GTCG do Bộ Tài chính phát hành thì NHNN có thể chấp thuận các loại GCTG khác do các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có uy tín, các chính quyền địa phương hoặc các tổng công ty lớn của Nhà nước được phép giao dịch trên thị trường mở. Việc đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở sẽ thúc đẩy các NHTM đầu tư vào các GTCG này, từ đó tăng thêm tính thanh khoản của các GTCG này và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán trái phiếu. b] Đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kỳ hạn trong một phiên 22 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Hiện nay, phần lớn trong một phiên giao dịch chỉ có một kỳ hạn và giao dịch theo một chiều mua hoặc bán nên các thành viên thị trường mở không có nhiều sự lựa chọn. Kỳ hạn giao dịch ngắn nhất là 7 ngày và thường giao dịch với kỳ hạn 15 ngày và 30 ngày. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên trong việc lựa chọn kỳ hạn giao dịch, NHNN cần đa dạng hoá hơn nữa các kỳ hạn giao dịch trong một phiên giao dịch. Trong thời gian trước mắt, NHNN có thể áp dụng 2 kỳ hạn giao dịch trong một phiên. Việc áp dụng nhiều kỳ hạn trong một phiên sẽ cho phép các thành viên có thêm sự lựa chọn phù hợp với dự báo nhu cầu vốn của họ. Qua đó, sẽ tạo thêm cơ hội và tăng sự hấp dẫn của thị trường mở đối với các thành viên. Bên cạnh đó, NHNN cần phân bổ hợp lý các kỳ hạn giao dịch. Trong thời gian chưa triển khai được việc đa dạng kỳ hạn giao dịch trong một phiên, NHNN cần phân bổ kỳ hạn hợp lý nhằm tránh tình trạng các thành viên phải dồn trả nhiều hợp đồng vào cùng một ngày hoặc vào các ngày quá gần nhau làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của họ, ví dụ hợp đồng 30 ngày và hợp đồng 15 ngày đáo hạn cùng một thời điểm. NHNN cũng cần tiến tới áp dụng giao dịch mua bán kỳ hạn qua đêm đối với OMO. c] Tăng tần suất giao dịch trên thị trường mở Nhu cầu vốn của hệ thống ngân hàng đang tăng nhanh. Chính vì vậy, việc gia tăng tần suất giao dịch của thị trường mở là hết sức cần thiết để tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng thêm mức độ can thiệp của NHNN đến thị trường. d] Cải tiến, nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho thị trường mở Bên cạnh việc cải tiến, hoàn thiện các quy định thì NHNN cần thực hiện đồng bộ việc cải tiến, nâng cấp hạ tầng công nghệ của thị trường mở, bằng cách: - Tiếp tục nâng cấp và đồng bộ hoá các trang thiết bị phần cứng, hoàn thiện chương trình phần mềm ứng dụng đối với OMO - Tăng cường tốc độ đường truyền bằng cách mở rộng băng thông đường truyền, nhất là đường truyền giữa các TCTD và NHNN và giữa Sở Giao dịch NHNN với Cục Công nghệ tin học ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần xây dựng các kênh dự phòng để đảm bảo giao dịch được thực hiện thông suốt, không bị đứt quãng. - Kết nối với hệ thống lưu ký GTCG, hệ thống kế toán, thanh toán để thống 23 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh nhất quản lý GTCG từ khi phát hành, luân chuyển giữa các TCTD, thanh quyết toán và sử dụng trong các giao dịch trên thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán. - NHNN cũng cần tăng cường an ninh trên mạng máy tính, nhất là với các thông tin mang tính nhạy cảm của NHNN. Rà soát lại các lỗ hổng trong hệ thống thông tin của NHNN để tăng tính bảo mật dữ liệu, từ đó hướng tới chấp nhận hoàn toàn các chữ kí điện tử. e] Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, thông tin rộng rãi về OMO để thu hút thêm các TCTD tham gia thị trường mở NHNN cần tăng cường biện pháp trao đổi thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường để kịp thời nắm bắt diễn biến thị trường làm cơ sở cho việc thực hiện OMO nói riêng và điều hành CSTT nói chung. Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần quan tâm hơn nữa đến các tín hiệu và cảnh báo của NHNN trên thị trường tiền tệ để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. f] Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường mở Để hoàn thiện và triển khai hiệu quả OMO tại Việt Nam, điều quan trọng là phải nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành OMO, không chỉ tại NHNN mà còn tại các TCTD thành viên. NHNN và các ngân hàng cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ngân hàng, cán bộ nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cần phải được chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng. Đối với cán bộ nghiệp vụ, cần tuyển chọn cán bộ từ khâu thi tuyển, sau đó có kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu, phân công vị trí công tác phải đảm bảo số lượng và chất lượng công việc. Đối với cán bộ quản lý cần sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng theo từng vị trí công tác g] Mở rộng các thành viên thị trường mở Trong tương lai, để tăng cường khả năng can thiệp của NHNN thông qua thị trường mở, NHNN cần nghiên cứu mở rộng các thành viên thị trường. Điều kiện tiên quyết là các tổ chức này phải có tài khoản giao dịch tại NHNN và có hệ thống máy tính nối mạng với NHNN. Việc mở rộng thành viên thị trường mở cho phép các tổ chức sử dụng vốn nhàn rỗi hiệu quả hơn trên thị trường. h] Công nhận chữ ký điện tử trong các giao dịch thị trường mở 24 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh Hiện nay, mặc dù tại các bản đăng ký mua, bán GCTG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng đều được ký duyệt trên mạng nhưng NHNN vẫn yêu cầu phải có chữ ký của lãnh đạo các TCTD trên các bản in để thực hiện chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử hay chữ ký của người được uỷ quyền. Để giảm bớt thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian hoàn thành các giao dịch thị trường mở, NHNN cần chấp nhận sử dụng các chữ ký điện tử của lãnh đạo TCTD hoặc những người được uỷ quyền trong các giao dịch này. Để thực hiện được điều này, NHNN cần bổ sung quy định về việc sử dụng chữ ký điện tử trong các giao dịch tiền tệ với NHNN và chấp nhận hoàn toàn chữ ký điện tử trong các giao dịch thị trường mở. Quy định này còn cần ở cấp độ cao hơn như Luật phải cho phép thực hiện chữ ký điện tử. i] Tăng hiệu quả của phương thức giao dịch hợp đồng mua lại Về định giá, công thức tính giá hợp đồng mua lại được áp dụng tại Việt Nam hiện tại chưa tính đến yếu tố rủi ro. Để đảm bảo an toàn về lâu dài cho NHNN, cần hoàn thiện kỹ thuật giao dịch cho đội ngũ cán bộ để có thể sử dụng công thức chính xác. Về hình thức đấu thầu, số lượng chủ thể hiện nay còn ít và cạnh tranh kém nên phù hợp hình thức đấu thầu khối lượng. Để giữ lãi suất tiền tệ ổn định, NHNN cần định ra mức lãi suất hợp lý giúp các phiên giao dịch đạt hiệu quả. Bên cạnh đó cơ chế mua bán ở thị trường mở cần linh hoạt hơn, tùy thuộc trọng tâm của CSTT. Phương pháp giá cố định không phù hợp khi cần tập trung vào kiểm soát khối lượng tiền tệ, chỉ nên áp dụng nếu trọng tâm là điều tiết lãi suất. Lãi suất phát hành trên thị trường mở ảnh hưởng trực tiếp tới lãi suất trên thị trường từ đó mở rộng hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu thông. Để đa dạng hóa các loại hợp đồng mua lại, một mặt cần nâng cao kỹ năng dự đoán vốn khả dụng để các phiên giao dịch được thường xuyên hơn. Mặt khác, cần hạn chế các phương thức cấp vốn khác cho TCTD để các đối tượng này thấy cần thiết và tích cực tham gia vào giao dịch trên thị trường mở. NHNN cũng cần có văn bản quy định rõ về những trường hợp sử dụng hợp đồng mua lại. k] Nâng cao khả năng dự báo vốn khả dụng Khả năng dự báo vốn khả dụng càng cao thì khối lượng trúng thầu dự kiến càng gần với thự tế. Vốn khả dụng của Ngân hàng biến động thường xuyên với biên độ mạnh do chịu sự ảnh hưởng của biến động ngoại tệ và chi tiêu Ngân sách. Vì vậy, đối với công tác dự báo cần phải thu thập, xử lý thông tin từ nhiều nguồn, luôn cập nhật những thông tin mới nhất, chính xác nhất, đồng thời nâng cao tần số dự báo hơn. 25 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh l] Xây dựng thị trường tiền tệ năng động, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng Đây là cơ sở để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động hiệu quả. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước cần được đẩy mạnh hiện đại hóa để tăng cường khả năng điều chuyển vốn trong hệ thống ngân hàng. khuyến khích các ngân hàng vay lẫn nhau và NHNN chỉ thực hiện tái chiết khấu, tái cấp vốn như “người cho vay cuối cùng” để đảm bảo an toàn hệ thống. 26 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh KẾT LUẬN Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ gián tiếp linh hoạt và hữu hiệu trong thực thi chính sách tiền tệ. Tại các nước phát triển, OMO có ý nghĩa hết sức quan trọng và được sử dụng chủ yếu trong điều tiết lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường. Ở các nước đang phát triển, OMO ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng khi các điều kiện thực hiện đã và đang chín muồi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện công cụ OMO có ý nghĩa thực tiễn tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù ra đời khá muộn so với thế giới, nhưng qua hơn 10 năm thực hiện, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần không nhỏ vào việc thực thi chính sách tiền tệ, ổn định nền kinh tế. Để nghiệp vụ thị trường mở được hiệu quả hơn, chúng ta cần xác định vai trò quan trọng của OMO trong điều tiết tiền tệ, được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Mặt khác, để thực hiện được mục tiêu của nghiệp vụ thị trường mở là điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cả toàn hệ thống các TCTD, cần đảm bảo qui định của nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thị trường tiền tệ Việt Nam trong từng thời kỳ, tăng cường sự phối hợp đồng bộ hơn nữa với các công cụ khác của CSTT để có những ứng phó phù hợp trước diễn biến phức tạp của kinh tế trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận thị trường nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ thị trường mở. NHÓM THỰC HIỆN 27 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn [2009], Nghiệp vụ ngân hàng trung ương, NXB ĐHQG TP.HCM 2. Dương Hữu Hạnh [2010], Ngân hàng trung ương: Các vai trò và các nghiệp vụ, NXB Lao Động 3. Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương [2006], Học viện Tài chính, NXB Tài chính 4. Báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam [2004 – 2009] 5. Bản tin thị trường mở hàng tuần của Công ty chứng khoán Habubank 6. TS. Hà Thị Sáu và Thân Thị Vi Linh, Bàn về nghiệp vụ thị trường mở trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngân hàng [Số 16/2011] 7. 8. Website của NHNN Việt Nam: //www.sbv.gov.vn //www.kienthuckinhte.com/tai-chinh/chung-khoan/1047- mo-rong-nghiep-vu-thi-truong-mo.html 28 Tiểu luận môn Tín dụng 1 GVHD: ThS. Bùi Diệu Anh DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN Họ và tên 1. Đỗ Thị Hồng Hạnh 2. Trần Nữ Quế Nhi 3. Thạch Thị Yến Nhi 4. Tạ Hồng Quang 5. Nguyễn Quốc Thắng Mã số sinh viên 030124080609 030124080850 030124080880 030124080806 29 Lớp ĐH24C1 ĐH24C1 ĐH24C3 ĐH24C3 ĐH24C1

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề