Tính cách người dân tộc Thái

Một số đặc điểm tính cách của sinh viên dân tộc thái và dân tộc hmông đang học ở trường cao đẳng sư phạm điện biên

  • doc
  • 139 trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Nhân cách là phạm trù quan trọng nhưng phức tạp, là cơ sở để làm sáng
tỏ những vấn đề khác trong tâm lý học. Mọi lĩnh vực liên quan đến yếu tố con
người từ công tác chính trị, kinh tế, quản lý, tổ chức giáo dục, y tế đều
nghiên cứu nhân cách. Nhân cách là một phạm trù phức tạp thể hiện ở việc
khó tìm thấy sự đồng nhất về khái niệm và các thành phần tạo nên nhân cách.
Tính phức tạp của nhân cách gây khó khăn không ít cho việc tìm hiểu nhân
cách của con người cũng như việc tác động nhằm hình thành và phát triển
nhân cách. Chính vì vậy, nghiên cứu về nhân cách và những thành phần trong
cấu trúc nhân cách là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ về
mặt lý thuyết mà còn cả về mặt thực tiễn.
Sự hiểu biết về nhân cách con người là tiền đề để điều khiển hoạt động
của họ một cách có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và điều kiện "Nhân tố con người" trở nên cấp bách như Nghị quyết
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII đã xác định: Một trong những
nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ CNH - HĐH đất nước là phát triển nguồn nhân
lực con người, thực hiện công bằng xã hội, xây dựng những thế hệ người Việt
Nam có đủ bản lĩnh, phẩm chất và năng lực đảm đương sứ mạng lịch sử ngày
nay. Muốn vậy, hình thành và phát triển nhân cách là nhiệm vụ và mục tiêu
cơ bản của giáo dục và đào tạo.
Tính cách của một con người là mặt quan trọng hàng đầu có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ nhân cách con người. Nghiên cứu tính cách của
sinh viên dân tộc ít người là một nội dung trong tâm lý học dân tộc, tâm lý
học tộc người- một lĩnh vực còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam.

1

Nghiên cứu các biểu hiện đặc trưng về nhân cách và tính cách của sinh
viên dân tộc ít người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho việc làm bộc lộ
bản sắc tính cách dân tộc của sinh viên, giúp họ tiếp tục hoàn thiện và phát
huy các đặc điểm nhân cách và tính cách tốt khắc phục những nét nhân cách
và tính cách còn hạn chế.
1.2. Về mặt thực tiễn
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề nhân cách con người, nhiều
chương trình, đề tài khoa học các cấp về nhân cách đã và đang triển khai như:
Đề tài KX 07.11, đề tài KX.07.04, chương trình KX.05, chương trình
KX.07 kết quả những công trình nghiên cứu nói trên đã mang lại nhiều
hiểu biết, song cũng nhiều vấn đề đang đặt ra và tiếp tục nghiên cứu.
Ở Việt Nam trong thời gian qua có nhiều công trình nghiên cứu nhân
cách nhưng số công trình nghiên cứu một cách độc lập về tính cách của con
người vẫn còn rất mỏng, đặc biệt là nghiên cứu về đặc điểm tính cách của
sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông thì hầu như chưa có.
Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên mang nét đặc trưng riêng của
vùng miền núi phía Tây Bắc của tổ quốc, sinh viên chủ yếu là sinh viên dân
tộc ít người, họ có phong tục tập quán và tính cách riêng của đồng bào dân tộc
ít người. Vì vậy, sự hiểu biết nhân cách, tính cách của sinh viên dân tộc ít
người là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Xuất phát từ những nội dung trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn và
nghiên cứu đề tài "Một số đặc điểm tính cách của sinh viên dân tộc Thái và
dân tộc HMông đang học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên".
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận và thực trạng một số đặc điểm tính cách của sinh
viên dân tộc Thái và dân tộc HMông, đề xuất và thực nghiệm một số biện
pháp tâm lý sư phạm nhằm góp phần rèn luyện đặc điểm tính cách trên cho

2

sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông tại Trường Cao đẳng Sư phạm
Điện Biên có kết quả.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biểu hiện đặc điểm tính cách của sinh viên dân tộc Thái và dân
tộc HMông Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể chính: 150 sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông đang học
các năm: Thứ nhất, thứ hai và thứ ba tại Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên.
- Khách thể hỗ trợ:
+ 75 sinh viên dân tộc Kinh
+ Cha mẹ một số sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông
+ Cán bộ quản lí các khoa, một số giảng viên của trường Cao đẳng Sư
phạm Điện Biên
4. Giả thuyết khoa học
Chúng tôi cho rằng, sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông có một
số đặc điểm tính cách chung của sinh viên và có nét tính cách đặc trưng riêng
của sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông. Nếu nắm được thực trạng biểu
hiện đặc điểm tính cách của họ có thể đề ra được biện pháp tác động tâm lý sư
phạm nhằm góp phần rèn luyện, phát triển một số nét tính cách tích cực và
khắc phục những nét tính cách còn hạn chế của sinh viên dân tộc Thái và dân
tộc HMông Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhân cách, tính cách, biểu
hiện đặc điểm tính cách dân tộc của sinh viên dân tộc Thái và dân tộc
HMông, các yếu tố ảnh hưởng.

3

5.2. Khảo sát thực trạng một số đặc điểm tính cách của sinh viên dân
tộc Thái và dân tộc HMông Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên, lý giải
nguyên nhân của thực trạng.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tác động sư phạm nhằm
góp phần rèn luyện tính cách của sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông
Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Đề tài khảo sát một số đặc điểm tính cách của sinh viên dân tộc Thái và
dân tộc HMông Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên.
6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tập trung tìm hiểu một số đặc điểm tính cách của 150 sinh
viên dân tộc Thái và dân tộc H'Mông đang học năm thứ nhất, thứ hai và thứ
ba tại Trường Cao đẳng Sư phạm Điện Biên, có so sánh đối chiếu với đặc
điểm tính cách của 75 sinh viên dân tộc Kinh.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Phương pháp này nhằm tìm hiểu cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp trắc nghiệm
7.2.2. Phương pháp chuyên gia
7.2.3. Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi
7.2.4. Phương pháp giải bài tập tình huống
7.2.5. Phương pháp quan sát
7.2.6. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.7. Phương pháp phân tích chân dung tính cách của một số sinh
viên dân tộc Thái và dân tộc HMông có tính đại diện

4

7.2.8. Phương pháp thực nghiệm tác động
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
8. Cấu trúc của luận văn
MỞ ĐẦU
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đặc điểm tính cách, tính cách dân tộc
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẶC ĐIỂM TÍNH CÁCH,
TÍNH CÁCH DÂN TỘC
1.1. Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu vấn đề tính cách ở nước ngoài
Tính cách dân tộc luôn luôn phản ánh những nét đặc trưng, tiêu biểu
của một dân tộc nên vấn đề này từ rất sớm đã được các nhà nghiên cứu quan
tâm khi tìm hiểu về tâm lý dân tộc.
Herodot [480-425 TCN] đã nghiên cứu về tính cách dân tộc và những
đặc trưng văn hóa của dân tộc trong mối quan hệ với môi trường xung quanh.
Ông đã miêu tả về những nét tính cách của dân tộc XKif như: Nghiêm khắc,
kiêu kỳ, độc ác và ông giải thích những nét tính cách này qua yếu tố môi
trường xung quanh [Dẫn theo 8; 212].
Vào thế kỷ XVIII, tính cách dân tộc cũng được một số nhà nghiên cứu
quan tâm khi tìm hiểu về tâm lý dân tộc. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng lý
giải tính cách dân tộc, cũng như các đặc điểm tâm lý dân tộc khác bằng điều
kiện địa lý, tự nhiên và khí hậu.
Vào những năm từ 1941 - 1947 nhà dân tộc học nổi tiếng người Mỹ là
M. Mead đã khởi xướng một Trường phái hiện đại nghiên cứu về tính cách dân
tộc trong thời gian xung đột và thậm chí cả những năm chiến tranh [Dẫn theo
8; 213]. Trong thời gian này dưới sự bảo trợ của Cục tình báo chiến tranh của
Hoa Kỳ, bà đã lãnh đạo một chương trình nghiên cứu về những mối liên hệ
giữa các dân tộc, đặc biệt là tính cách dân tộc. Năm 1954, Mead được bổ nhiệm
làm giáo sư dân tộc học tại Trường Đại học Columbia. Đây là trung tâm của
Trường phái hiện sinh về tính cách dân tộc.
M. Mead là người đầu tiên áp dụng lý thuyết duy văn hóa về nhân
cách vào xã hội hiện đại, mở đầu cho những nghiên cứu duy văn hóa về tính
cách dân tộc. Năm 1942, Mead công bố một công trình nghiên cứu về tính

6

cách dân tộc Mỹ. Năm 1944 công bố nghiên cứu về tính cách dân tộc Anh
qua phân tích mối quan hệ giữa nhóm quân đội Mỹ với người dân Anh. Năm
1946, bà công bố tiếp nghiên cứu của mình về xã hội Nhật Bản.
Cùng với hướng nghiên cứu tính cách dân tộc từ góc độ duy văn hóa
còn có hướng tiếp cận khác về tính cách dân tộc trong thời gian này là hướng
nghiên cứu tâm lý học về tính cách dân tộc. Trong giai đoạn từ 1940 - 1945
có ba công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Anh, Mỹ công bố được
dư luận chú ý. Công trình thứ nhất là bài nói chuyện của các nhà tâm lý học
người Anh Morris Ginberg [1941] trước Ban Tâm lý học xã hội thuộc Hội
Tâm lý học Anh. Hai công trình nghiên cứu còn lại công bố năm 1942, 1944
của Gregoy Bateson và của Ott Klineberg. Ba công trình nghiên cứu này ủng
hộ cho một khuynh hướng nghiên cứu tính cách dân tộc theo phương pháp
luận của Tâm lý học xã hội hiện đại và thiết lập một khoa học về tính cách
dân tộc [Dẫn theo 8; 214].
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ II có một số nghiên cứu được
người ta chú ý nhiều nhất là nghiên cứu của M. Mead [1942 - 1944] về tâm lý
dân tộc của các nước đồng minh; nghiên cứu của E.H.Erikson [1942],
R.Bricker [1943] về tâm lý dân tộc của các nước thù địch; nghiên cứu của
R.H.Lovie [1945] về tâm lý dân tộc Đức; nghiên cứu của G.Gorer [1943],
R.Benedict [1946] và D.G.Haring [1946] về tâm lý của dân tộc Nhật Bản
[Dẫn theo 8; 214].
Giai đoạn 1945 - 1955 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các nghiên
cứu về tính cách dân tộc. Trong giai đoạn này do diễn biến của cuộc chiến
tranh lạnh đã làm cho các nhà nghiên cứu phương Tây quan tâm nghiên cứu
về tâm lý dân tộc Nga, các dân tộc ở Châu Âu. Đa số các công trình nghiên
cứu về tính cách dân tộc đều được công bố trong giai đoạn này. Nhà nhân học
người Anh Greoffrey Gorer đã công bố nhiều công trình về tính cách dân tộc

7

lớn trên thế giới như: Tính cách dân tộc Nhật Bản [1946], Tính cách dân tộc
Mỹ [1948], Tính cách đại Nga [1949], tính cách dân tộc Anh [1955].
Cuối thập kỉ 50 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu bắt đầu đi sâu
nghiên cứu về những vấn đề lý luận của tính cách dân tộc. Vào giai đoạn
này có một sự kiện quan trọng là Đại hội Nhân học quốc tế vào tháng 6
năm 1952 tại NewYork, hội thảo về tính cách dân tộc của Hội tâm lý học
Mỹ vào tháng 5 năm 1954 tại NewYork và Đại hội lần thứ tư về Xã hội học
năm 1959 tại Milan.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, ở Mỹ những công trình nghiên cứu
về tính cách dân tộc của dân tộc Nhật đã cố gắng giải thích những nét tính
cách như: Sự phụng sự và hiến dâng cho nhà vua, sự phục tùng và tinh thần tự
tôn của quân đội Nhật bằng yếu tố giáo dục của xã hội và gia đình.
Nhà nghiên cứu người Mỹ J. Schonberger vào cuối thập kỷ 70 của thế
kỷ XX khi nghiên cứu về cách thức quản lý của người Nhật đã phân tích về
một số nét tính cách cơ bản của người Nhật như: Tính kỷ luật cao, tinh thần
hợp tác, tương trợ, trung thành, hòa thuận, tính cộng đồng trong việc ra quyết
định, tinh thần phục thù
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tính cách dân tộc ở trong nước
Ở Việt Nam, Tâm lý học dân tộc hiện diện như một phân ngành tâm lý
học độc lập thì mới chỉ cách đây không lâu, song nghiên cứu về tâm lý dân
tộc, trong đó có tính cách dân tộc đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu.
Tác giả Nguyễn Hồng Phong trong cuốn Tìm hiểu tính cách dân tộc
đã đưa ra một hệ thống khái niệm chung về tâm lý, tính cách cộng đồng dân
tộc trong đó tác giả đã nghiên cứu và đưa ra những đặc điểm đặc trưng trong
tính cách của dân tộc Việt Nam như: Tính cộng đồng tập thể, trọng đạo đức,
cần kiệm, giản dị, thực tiễn, yêu nước bất khuất, yêu chuộng hòa bình [23].
Năm 1965, trong cuốn sách: Người Việt cao quý [Nxb Lạc Việt Sài
Gòn] của Vũ Hạnh [A.Pazzi] đã nghiên cứu khá đầy đủ về tính cách người

8

Việt Nam, ông đã nêu lên 5 tính cách tiêu biểu của người Việt cao quý được
thể hiện trong đời sống sinh hoạt văn hóa [13].
Tác giả Phan Kế Bính trong cuốn Việt Nam phong tục đã nghiên cứu
phân tích, tổng hợp về phong tục con người Việt Nam đã có những khái quát,
nhận định chung về tính cách con người Việt Nam [4].
Tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương đã có
những khái lược về một số nét tính cách của con người Việt Nam được hình
thành thông qua quá trình lịch sử [1].
Nhà văn Sơn Nam trong những nghiên cứu về lịch sử, văn hóa của
vùng đất Nam Bộ được thể hiện qua các tác phẩm Lịch sử khẩn hoang, văn
minh miệt vườn, Bến nghé Xưa, Đất Nam Bộ xưa đặc biệt trong tác
phẩm Người Việt có tính dân tộc không đã có những khái quát, nhận định
về nét tính cách của người Việt và tính cách của con người Nam Bộ [20].
Đoàn Quốc Sỹ viết về tính cách người Việt trong tác phẩm Người Việt
đáng yêu, ông đã phân tích tâm lý dân tộc Việt trong đó có một số nét tính
cách người Việt qua lăng kính của làng xã Việt Nam với chế độ thôn tự trị là
cơ sở kinh tế - xã hội quan trọng để hình thành nên tính cách người Việt qua
lăng kính của thi ca và văn hóa Việt [28].
Tác giả Vũ Dũng qua Dự án điều tra cơ bản những yếu tố tâm lý dân
tộc ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay đã tập
trung điều tra các yếu tố tâm lý dân tộc như nhận thức, tính cách, giao tiếp
của các dân tộc [8].
Những vấn đề tâm lý dân tộc tiếp tục được nghiên cứu trong đề tài độc
lập cấp Nhà nước Những đặc điểm tâm lý cơ bản của cộng đồng người ở
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và ảnh hưởng của chúng tới sự phát triển kinh tế xã hội của khu vực này do Vũ Dũng làm chủ nhiệm [8].

9

Đề tài khoa học cấp Nhà nước Những yếu tố tâm lý cơ bản của dân
tộc thiểu số Tây Bắc và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển và ổn định
của khu vực này do Vũ Dũng làm chủ nhiệm đề tài.
Đề tài Tâm lý cộng đồng làng và di sản [1992] các cán bộ nghiên
cứu của Viện Tâm lý học đã phân tích khá sâu và toàn diện về tính cộng đồng
của người Việt. Tính cộng đồng được lý giải trên cơ sở kinh tế, xã hội của
làng xã Việt Nam.
Một số nhà sử học, văn hóa học, tâm lý học.đã phân tích tính cộng
đồng như một nét tính cách đặc trưng của người Việt trong lịch sử và hiện tại
[Phan Kế Bính, Nguyễn Đổng Chi, Phan Đại Doãn, Đỗ Long, Lê Thanh
Hương.]. Đặc biệt trong khuôn khổ của đề tài Tâm lý cộng đồng làng và
di sản [1992] của cán bộ nghiên cứu Viện Tâm lý học đã phân tích khá sâu
và toàn diện về tính cộng đồng của người Việt.
Vào những năm 1995 1996 trong một đề tài hợp tác với Nhật Bản
Tác động tâm lý đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản, các cán bộ Viện
Tâm lý đã phân tích khá sâu một số nét tính cách của người Nhật như: Sự tôn
trọng truyền thống, tinh thần cộng đồng, lòng trung thành, tính hiếu học, sáng
tạo, ham mê lao động tiết kiệm. Các tác giả đã cho rằng, các nét tính cách này
có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc điểm tính cách của sinh viên dân tộc ít
người chưa được đề cập nhiều. Do đó chúng tôi lựa chọn: Một số đặc điểm
tính cách của sinh viên dân tộc Thái và dân tộc HMông Trường Cao đẳng Sư
phạm Điện Biên làm đề tài nghiên cứu, nhằm góp phần làm phong phú và
toàn diện hơn về tính cách của sinh viên nói chung và tính cách của sinh viên
dân tộc Thái và dân tộc HMông nói riêng.
1.2. Một số vấn đề lý luận về nhân cách, tính cách, tính cách dân tộc
1.2.1. Một số vấn đề lý luận về nhân cách

10

1.2.1.1. Khái niệm nhân cách và đặc điểm nhân cách
1.2.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học như:
Triết học, Xã hội học, Giáo dục học trong đó có khoa học tâm lý. Đây là
vấn đề phức tạp nên ngay trong tâm lý học cũng có nhiều định nghĩa và quan
niệm khác nhau về nhân cách. Ngay nay đã có tới hàng trăm định nghĩa của
các nhà khoa học tâm lý học về nhân cách [Dẫn theo 34; 130].
Hiện nay, trong khoa học tâm lý có nhiều lý thuyết khác nhau nghiên
cứu về nhân cách: Thuyết phân tâm học của S.Freud [1896 -1939], lý thuyết
xã hội hóa nhân cách, đại diện là một số tác giả G.W.Allport, H.J.Eysenck,
R.B.Cattell, trong lý thuyết tương tác xã hội của G.M.Mead và nhiều lý
thuyết khác cùng nghiên cứu về vấn đề nhân cách. Mỗi lý thuyết đều đưa ra
những định nghĩa khác nhau về nhân cách tùy theo góc độ nghiên cứu của họ.
Lý thuyết về vấn đề nhân cách trong học thuyết phân tâm học của
S.Freud quá đề cao yếu tố sinh học, coi bản năng vô thức chi phối toàn bộ
nhân cách con người, dẫn đến chỗ sinh vật hóa con người.
Trong lý thuyết tương tác xã hội của G.M.Mead khi nghiên cứu về
nhân cách lại quá đề cao yếu tố xã hội trong cấu trúc nhân cách, ông cho rằng
chỉ cần chú ý đến yếu tố xã hội là đủ để hiểu về nhân cách con người mà
không cần tính đến yếu tố sinh học, giáo dục, không chú ý đến tính chủ thể
của con người.
Khi nghiên cứu về nhân cách, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác,
các nhà tâm lý học Mác xít cho rằng: Khái niệm nhân cách là phạm trù xã
hội có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung
của những điều kiện lịch sử của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm
nhân cách của từng người [2; 260].

11

Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, quy định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó [2; 260].
Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới, được hình thành trong các quan hệ
sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó [3; 128].
Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân, thể hiện
những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với
cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của
cá nhân với công việc trong qua khứ, hiện tại và tương lai [3; 222].
Nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể
hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với
thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù hợp càng cao
thì nhân cách càng lớn [12; 24].
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người [41; 110].
Như vậy, nhân cách là sự tổng hòa không phải các đặc điểm cá thể của
con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là thành viên
của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của
mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lý tạo thành nhân cách thường biểu hiện ở
ba cấp độ: Cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện
ra hoạt động và các sản phẩm của nó.
1.2.1.1.2. Đặc điểm nhân cách
Cũng như khái niệm nhân cách, trong tâm lý học có nhiều khái niệm
khác nhau về đặc điểm nhân cách, theo nghĩa chung nhất thì đặc điểm có
nghĩa là nét riêng biệt [36]. Như vậy có thể hiểu đặc điểm nhân cách là nét
riêng biệt của nhân cách. Tuy nhiên các nhà tâm lý học không chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu mặt lý thuyết của đặc điểm nhân cách mà còn đưa ra những
phương pháp đo đạc một cách cụ thể những đặc điểm này.

12

Theo G.W.Allport thì đặc điểm nhân cách là đơn vị của nhân cách và
nó thực sự tồn tại dựa trên hệ thần kinh [Dẫn theo 21; 67]. Nó là thiên hướng
chung của nhân cách giải thích cho sự điều chỉnh hành vi con người mang
tính nhất quán qua hoàn cảnh và ổn định theo thời gian. Đặc điểm được xác
định qua ba tính chất: tần số, cường độ và phạm vi các tình huống. Tuy nhiên,
ông nhấn mạnh đến đến tính duy nhất của nhân cách và từ đó là tính duy nhất
của các đặc điểm nhân cách.
H.J.Eysenck lại quan niệm rằng kiểu loại nhân cách chứa đựng đặc
điểm nhân cách, do đó đặc điểm nhân cách ở vị trí trung gian, nhờ những đặc
điểm này có thể phân loại nhân cách. Tập hợp một số đặc điểm nhân cách có
liên quan hình thành nên một kiểu loại nhân cách. Theo H.J.Eysenck thì kiểu
loại nhân cách phản ánh những nét khác biệt về hoạt động sinh lý thần kinh.
Như vậy cũng giống như G.W.Allport, H.J.Eysenck nhấn mạnh đến cơ sở
sinh học của đặc điểm nhân cách.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về đặc điểm nhân cách, R.B.Cattell
cũng cho rằng đặc điểm nhân cách là thiên hướng ứng xử nhất định của nhân
cách. Ông thừa nhận đặc điểm nhân cách là những khuôn mẫu và điều chỉnh
hành vi ổn định qua thời gian và nhất quán qua hoàn cảnh của con người.
R.B.Cattell nhìn nhận vai trò của cả yếu tố gen và yếu tố môi trường với đặc
điểm nhân cách.
Như vậy, ngay cả các nhà tâm lý học thuộc dòng lý thuyết đặc điểm
nhân cách đã có cách hiểu và lý giải không hoàn toàn giống nhau về đặc điểm
nhân cách. Theo tác giả trên thì thuật ngữ đặc điểm nhân cách được định
nghĩa trong mối liên quan mật thiết với hành vi và hành vi như là hệ quả tất
yếu của những đặc điểm nhân cách mang tính ổn định và nhất quán, như là
tổng hòa các phẩm chất bẩm sinh [Dẫn theo 21; 235]. Cách lý giải trên khiến

13

cho việc nghiên cứu những nhân tố quyết định hình thành hành vi con người
trở nên phiến diện.
Theo một số nhà tâm lý học Việt Nam, đặc điểm nhân cách thường
được sử dụng để hiểu, mô tả và đánh giá về một cá nhân, để phân biệt các cá
nhân. Vì vậy, trong khái niệm đặc điểm nhân cách cũng phải tính đến đặc
điểm này. Đặc điểm nhân cách theo tác giả Bùi Văn Huệ đó là thuộc tính nhất
định của nhân cách, đại diện cho một số cá nhân, giúp ta phân biệt được cá
nhân này với cá nhân khác không có thuộc tính ấy và cùng với cá nhân khác
có thuộc tính ấy, nó thể hiện cái toàn thể có tính chất bộ phận [17; 41-42].
Trong từ điển tâm lý học do tác giả Vũ Dũng chủ biên, khái niệm đặc
điểm nhân cách được hiểu là: Đặc điểm tương đối bền vững của hành vi con
người, lặp đi lặp lại trong những hoàn cảnh khác nhau [6].
Từ sự phân tích trên về điểm nhân cách, có thể hiểu: Đặc điểm nhân
cách là những thuộc tính nhất định của nhân cách, tạo nên đặc trưng của một
cá nhân, giúp ta phân biệt đước cá nhân này với cá nhân khác, nó có tính
thống nhất, tính ổn định tương đối và được thể hiện qua những hành vi.
1.2.1.2. Một số lý thuyết về đặc điểm nhân cách
Trong khuôn khổ đề tài luận văn, chúng tôi xin nêu lên một số lý thuyết
tiêu về đặc điểm nhân cách.
Lý thuyết về đặc điểm nhân cách của Gordon Willard Allport [1897
- 1967]
Lý thuyết đặc điểm nhân cách của H.J.Eysenck [1916 1997]
Lý thuyết đặc điểm nhân cách của Raymond Bernard Cattell [1905 - 1998]
Ngoài ra còn có thể kể đến 5 mẫu yếu tố lớn của nhân cách [Big five
model]. Đại diện của lý thuyết này là các tác giả Goldberg, Mc Crae, Costa,
Bowin và Buss đã đưa ra các ý tưởng để xây dựng nên lý thuyết Big Five. Lý
thuyết này khi mới ra đời với nhiều tên gọi khác nhau nhưng thống nhất với

14

nhau về mặt nội dung. Tên gọi 5 yếu tố được nhiều người tán thành nhất là các
yếu tố: Nhạy cảm, hướng ngoại, sẵn sàng trải nghiệm, tán thành và tận tâm.
Bên cạnh các lý thuyết về đặc điểm nhân cách, ở Việt Nam còn có quan
niệm về đặc điểm nhân cách với hai thành phần cơ bản của nhân cách là đức
và tài theo như một số nhà tâm lý học Việt Nam đã đề cập đến. Đức ở đây
có thể hiểu là những phẩm chất đạo đức, còn tài" có thể hiểu là tài năng. Con
người có nhân cách toàn diện phải bao hàm cả hai mặt này, cả hai mặt này
ảnh hưởng đến hiệu quả và kết quả của hoạt động.
Ý tưởng về cấu trúc hai thành phần này của nhân cách được một số nhà
tâm lý học tiểu biểu của Viêt Nam đề cập có thể kể đến tác giả Nguyễn Ngọc
Bích, Nguyễn Quang Uẩn.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích [3; 233 -234] cho rằng những phẩm chất
đạo đức bao gồm:
- Thế giới quan, lý tưởng bao gồm quan điểm chính trị, lập trường, vai
trò xã hội của cá nhân.
- Thái độ và hành vi ứng xử xã hội của cá nhân.
- Tình cảm và ý chí.
Mặt tài hay còn gọi là năng lực bao gồm:
- Năng lực trí tuệ - năng khiếu, năng lực chuyên môn, tài năng.
- Năng lực thể chất tâm lý.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn [41;112] cho rằng phẩm chất đạo đức
bao gồm:
- Phẩm chất xã hội [đạo đức chính trị]: Thế giới quan, niềm tin, lý
tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động.
- Phẩm chất cá nhân [hay đạo đức, tư cách]: Các nết, các thói..
- Phẩm chất ý chí: Tính kỉ luật, tự chủ, tính mục đích, tính phê phán,
tính quả quyết..

15

- Cung cách ứng xử: Tác phong, lễ tiết, tính khí..
Mặt tài [năng lực] bao gồm:
- Năng lực xã hội hóa: Khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo, cơ động..
- Năng lực chủ thể hóa: Khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc..
- Năng lực hành động: Khả năng hành động có mục đích, có điều
khiển.
- Năng lực giao tiếp: Khả năng thiết lập duy trì mối quan hệ với
người khác.
1.2.2. Một số vấn đề lý luận về đặc điểm tính cách, tính cách dân tộc ít người
1.2.2.1. Khái niệm tính cách
Quan niệm của các tác giả Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Lê
Khanh: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của
con người, những đặc điểm này quy định phương thức hành vi điển hình của
con người trong điều kiện và hoàn cảnh sống nhất định, thể hiện thái độ của
họ đối với thế giới xung quanh và bản thân [10; 29].
Cũng theo các tác giả trên con người có thái độ khác nhau đối với thế
giới xung quanh, đối với người khác, đối với tập thể, đối với lao động, đối với
trách nhiệm xã hội của mình, đối với bản thân mình. Chính những thái độ này
làm cho người này khác người kia. Thái độ đó được biểu lộ trong hành vi,
trong cử chỉ của con người [10; 29].
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: Tính cách là một thuộc tính
phức hợp của cá nhân bao gồm một hệ thống thái độ của nó với hiện thực,
thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng [41; 113].
Cũng theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn tính cách là cái được thể hiện rất cụ
thể, phong phú: Trong cuộc sống hàng ngày ta thường dùng từ tính tình,
tính nết, tư cách... để chỉ tính cách. Những nét tính cách tốt thường được

16

gọi là đặc tính, lòng, tinh thần; những nét tính cách xấu thường được
gọi là tật, thói.
Trong tâm lý học quân sự, tính cách được định nghĩa: Tính cách là sự
kết hợp độc đáo những đặc trưng tâm lý điển hình, ổn định, bền vững của cá
nhân, được biểu hiện ra trong hệ thống thái độ và hành vi, trong đặc điểm
của các quá trình tâm lý và thuộc tính tâm lý" [14; 203].
Trong tâm lý học thể thao do tác giả P.A.Ruđích chủ biên thì tính cách
được định nghĩa: Tính cách biểu hiện qua những đặc điểm của cá tính là cái
dấu vết rõ ràng trong hành vi của con người, trong quan hệ của con người
với người khác với thế giới bên ngoài [24]. Trong định nghĩa này tác giả đã
thể hiện được mặt biểu hiện của tính cách đó là Cái để lại dấu vết rõ ràng
thông qua hành vi trong các mối quan hệ giữa người với người và với thế giới
bên ngoài. Tuy nhiên do chú ý nhiều đến mặt biểu hiện nên định nghĩa còn
nặng về tính kỹ thuật. Mặt khác định nghĩa này còn hạn chế: đối với con
người có thể nhận ra rằng chính tính cách là yếu tố tạo nên cá tính. Đó là sự
tổ hợp các đặc điểm của tính cách trong mỗi cá nhân tạo nên cá tính chứ
không phải tính cách biểu hiện qua những đặc điểm của cá tính. Cá tính chẳng
qua chỉ là sự khác biệt giữa các cá nhân về mặt tính cách còn gọi là tính cá
biệt. Quan hệ của tính cách và cá tính là quan hệ giữa cái chung, cái riêng và
cái đơn nhất.
Tác giả Bùi Văn Huệ đã định nghĩa: Tính cách là những phẩm chất
chung của nhân cách, là tập hợp không phải tất cả mà chỉ là những đặc điểm
điển hình của nhân cách ở trong mối liên hệ chặt chẽ [16; 69]. Quan niệm
này đã định vị được tính cách Là những phẩm chất chung của nhân cách.
Tuy nhiên sự định vị này còn làm cho chúng ta thấy rằng tính cách là những
phẩm chất rời rạc, đơn lẻ của nhân cách mà không thấy được tính trọn vẹn và

17

thống nhất của tính cách. Quan niệm này cũng chỉ dừng lại ở khía cạnh chứ
chưa khắc họa được bản chất của tính cách là gì.
Qua các định nghĩa trên có thể nhận thấy điểm chung của các tác giả
khi định nghĩa về tính cách:
- Tính cách là thuộc tính tâm lý của cá nhân có tính ổn định và bền
vững tương đối, là một thành phần trong cấu trúc nhân cách của cá nhân.
- Tính cách được phức hợp từ nhiều phẩm chất [đặc điểm - thuộc tính]
tâm lý tạo nên. Sự phức hợp này đã làm cho tính cách mang tính hoàn chỉnh,
thống nhất, riêng biệt [đặc thù], độc đáo, điển hình ở mỗi cá nhân. Sự kết hợp
này không phải là phép cộng đơn giản, mà là sự kết hợp riêng biệt thành một
thể sinh động, thành một thể thống nhất, cũng giống như một bản nhạc, không
phải là một chuỗi riêng lẻ của những nốt nhạc.
- Tính cách là sự thể hiện thái độ của cá nhân trước hiện thực. Đó là sự
nhiệt tình, sôi nổi, thẳng thắn, trách nhiệm, cần cù, chịu khó, hay hiếu thắng,
ganh đua, ích kỷ, bủn xỉn, gian manh Tất cả những phẩm chất này được quy
tụ, phức hợp thành một chỉnh thể mang bản sắc cá nhân và được thể hiện bằng
thái độ của chính cá nhân ấy thông qua hành vi, cử chỉ và cách nói năng
Như vậy từ định nghĩa, khái niệm trên, theo chúng tôi khi nói đến tính
cách cần phải phản ánh đầy đủ những thuộc tính sau:
- Tính cách là một thuộc tính tâm lý của cá nhân, là một chỉnh thể toàn
vẹn, thống nhất là bộ khung của nhân cách bao gồm một hệ thống phẩm
chất tâm lý mang tính điển hình.
- Thuộc tính tâm lý này được phức hợp từ những phẩm chất tâm lý
trong mỗi cá nhân. Chính từ sự phức hợp đã tạo nên cho tính cách mang tính
độc đáo, riêng biệt và đặc trưng ở từng cá nhân.
- Biểu hiện của tính cách là hệ thống thái độ của cá nhân nhưng những
thái độ này phải mang tính hệ thống và điển hình.

18

- Tính cách được thể hiện thông qua hành vi và hoạt động đối với xã
hội, lao động học tập, với người khác và đối với bản thân.
Qua các nghiên cứu của các tác giả, trong đề tài này chúng tôi sử dụng
khái niệm tính cách như sau: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm
tâm lý ổn định của con người, những đặc điểm này quy định phương thức
hành vi điển hình của con người trong điều kiện và hoàn cảnh sống nhất
định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân.
1.2.2.2. Đặc điểm của tính cách
a, Khái niệm đặc điểm
Từ điển tiếng việt của Hoàng Phê đã định nghĩa: Đặc điểm là những nét
riêng biệt nổi lên của sự vật hiện tượng [22 ;215]
Như vậy một sự vật hiện tượng hoặc một lớp sự vật hiện tượng cùng loại
có những đặc điểm chung với các sự vật hiện tượng khác cùng loại, đồng thời
có những đặc điểm riêng nổi trội, nói lên những nét riêng biệt của sự vật hiện
tượng ấy hay của lớp các sự vật hiện tượng cùng loại.
Đặc điểm là cái để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng
khác. Đặc điểm là những tính chất có trong sự vật hiện tượng, nói lên cái bản
chất đặc trưng của sự vật hiện tượng.
b, Khái niệm đặc điểm tính cách
Nói đến tính cách không phải nói đến những đặc điểm hành vi ngẫu
nhiên của một người nào đó mà là những phương thức hành vi ổn định, quen
thuộc đối với họ, những phương thức hành vi mà chúng biểu thị nhân cách
của con người, biểu thị thái độ đối với thế giới.
Tính cách không bao hàm các quá trình tri giác, tư duy, tình cảm, ý chí.
Tính cách cũng không phải là trung bình cộng của các hiện tượng tâm lý khác
nhau. Tính cách là một cấu trúc tâm lý phức hợp, độc đáo phụ thuộc vào
những tác động của cuộc sống là một hệ thống bao gồm những thuộc tính như

19

xu hướng, ý chí, đặc điểm trí tuệ và tình cảm được hình thành, phản ánh cuộc
sống và hoạt động cá nhân.
Thái độ đối với thế giới, những cách hành động và xử sự riêng biệt của
một người hay một nhóm người đều hình thành trong quá trình nhận thức và
hoạt động, trong những điều kiện xã hội nhất định của cuộc sống. Tất cả
những thái độ đã hình thành và có tính chất chủ đạo như thế của con người
đối với xã hội, đối với bản thân và những cách cư xử quen thuộc trong môi
trường xã hội tạo thành tính cách của mỗi người.
- Tính cách của con người thể hiện một phong cách sống nhất định trong
nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, mục đích, tình cảm và ý chí. Những yếu tố
này biểu hiện ở chỗ cá nhân lựa chọn một hoạt động và hành vi, thái độ và cách
đối xử như thế này hoặc như thế kia. Tuy nhiên, trong hệ thống những thuộc
tính tâm lý thì niềm tin, thái độ và thói quen đạo đức giữ vai trò trung tâm trong
tính cách con người, nghĩa là tính cách là tập hợp những đặc điểm tâm lý bền
vững nhất của nhân cách thể hiện qua hành vi và hoạt động của họ.
- Nói đến tính cách là nói đến cái điển hình và cái cá biệt trong nhân
cách. Tính cách không phải di truyền cũng không phải là một thuộc tính bất
biến của nhân cách. Tính cách con người được hình thành và phát triển dưới
ảnh hưởng của môi trường, của kinh nhiệm sống, của giáo dục và tự giáo dục.
Các ảnh hưởng này bao gồm hai loại:
Thứ nhất: Đó là ảnh hưởng xã hội lịch sử bởi vì mỗi người đều sống
trong một xã hội nhất định, trong một thời đại, một môi trường xã hội nhất
định nên họ sẽ được hình thành như một nhân cách dưới ảnh hưởng của điều
kiện đó.
Thứ hai: Đó là những ảnh hưởng cá thể độc đáo bởi vì những điều kiện
sống và hoạt động của mỗi người, con đường sống của họ đều rất độc đáo và
không lặp lại. Tính cách của mỗi người vừa được quy định bởi hoàn cảnh xã

20

Tải về bản full

Video liên quan

Chủ Đề