Tư tưởng tâm lý học thời Trung cổ

1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học

Loài người ra đời trên Trái Đất này mới được khoảng 10 vạn năm - con người trí khôn có một cuộc sống có lí trí, tuy buổi đầu còn rất sơ khai, mông muội.

Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ, người ta thấy những bằng cứ chứng tỏ đã có quan niệm về cuộc sống của "hồn", "phách" sau cái chết của thể xác. Trong các bản văn tự đầu tiên từ thời cổ đại, trong các kinh ở ấn Độ đã có những nhận xét về tính chất của "hồn", đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm lý.

- Khổng Tử [551 - 479 TCN] nói đến chữ "tâm" của con người là "nhân, trí, dũng", về sau học trò của Khổng Tử nêu thành "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín".

- Nhà hiền triết Hi Lạp cổ đại là Xôcrát [469 - 399 TCN] đã tuyên bố câu châm ngôn nổi tiếng "Hãy tự biết mình". Đây là một định hướng có giá trị to lớn cho tâm lý học: con người có thể và cần phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái ta.

Người đầu tiên hbn về tâm hồn" là Arixtốt [384 - 322 TCN]. ông là một trong những người có quan điểm duy vật về tâm hồn con người. Arixtốt cho rằng, tâm hồn gắn liền với thể xác tâm hồn có ba loại:

+ Tâm hồn thực vật có chung ở người và động vật làm chức năng dinh dưỡng [còn gọi là "tâm hồn dinh dưỡng"].

+ Tâm hồn động vật có chung ở người và động vật làm chức năng cảm giác, vận động [còn gọi là htm hồn cảm giác"].

+ Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người [còn gọi là "tâm hồn suy nghĩ"].

Quan điểm của Arixtốt đối lập với quan điểm của nhà triết học duy tâm cô đại Phlatong [428 - 348 TCN]. Phlatongcho rằng, tâm hồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do Thượng đế sinh ra. Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, chỉ có ở giai cấp chủ nô, tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở tầng lớp nô lệ.

Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn là quan điểm của các nhà triết học duy vật như: Thalet [thế kỉ thứ VII -V TCN]; Anaxứimn [thế kỉ V TCN], Hêrachlít [thế kỉ VI - V TCN]... cho rằng tâm lý, tâm hồn cũng như vạn vật đều được cấu tạo từ vật chất như: nước, lửa, không khí, đất. Còn Đêmôcrít [460 -370 TCN] cho rằng tâm hồn do nguyên tử cấu tạo thành, trong đó "nguyên tử lửa" là nhân tố tạo nên tâm lý. Thuyết ngũ hành coi kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tạo nên vạn vật trong đó có cả tâm hồn.

Các quan điểm duy vật và duy tâm luôn đấu tranh mãnh liệt xung quanh mối quan hệ vật chất và tinh thần, tâm lý và vật chất.

1.2. Những tư tưởng tâm lý học từ nửa đầu thế kỉ XIX trở về trước

- Trong suốt thời kì trung cổ, tâm lý học mang tính chất thần bí - bản thể huyền bí. Nghiên cứu về cuộc sống tâm hồn bị quy định bởi các nhiệm vụ thần học, do vậy mọi kết quả nghiên cứu chỉ nhằm xem tâm hồn người sẽ phải đưa tới xứ sở của sự hưng thịnh như thế nào?

- Thuyết nhị nguyên: R. Đềcác [1596 - 1650] đại diện cho phái nhị nguyên luận" cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại. Đềcác coi cơ thể con người phản xạ như một chiếc máy Còn bản thể tinh thần, tâm lý của con người thì không thể biết được. Song Đề các cũng đã đặt cơ sở đầu tiên cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý.

Sang thế kỉ XVIII, tâm lý học bắt đầu có tên gọi. Nhà triết học Đức Vôn Phơ đã chia nhân chủng học [nhân học] ra thành hai thứ khoa học, một là khoa học về cơ thể, hai là tâm lý học. Năm 1732, ông xuất bản cuốn "Tâm lý học kinh nghiệm". Sau đó 2 năm [1734] ra đời cuốn "Tâm lý học lí trí". Thế là tâm lý học" ra đời từ đó.

- Các thế kỉ XVII - XVIII - XIX cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật.

+ Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Béccơli [1685 - 1753], E. Makhơ [1838 - 1916] cho rằng thế giới không có thực, thế giới chỉ là "phức hợp các cảm giác chủ quan" của con người. Còn D. Hium [1711 - 1776] coi thế giới chỉ là những "kinh nghiệm chủ quan". Nguồn gốc của kinh nghiệm là do đâu? Hium cho rằng con người không thể biết. Vì thế, người ta vẫn coi Hium thuộc vào phái bất khả tri.

Học thuyết duy tâm phát triển tới m ức độ cao thể hiện ở "ý niệm tuyệt đối" của Hêghen.

+ Thế kỉ XVII - XVIII - XIX, các nhà triết học và tâm lý học phương Tây đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinôda [1632 - 1667] coi tất cả các vật chất đều có tư duy, Lametri [1709 - 1751] một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác; còn Canbanic [1757 - 1808] cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết ra mật.

L. Phơbách [1804 - 1872] nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, khẳng định: Tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não người, nó là sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.

Đến nửa đầu thế kỉ XIX có rất nhiều điều kiện để tâm lý học trưởng thành, tự tách ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ vào triết học với tư cách là một bộ phận, một chuyên ngành của triết học.

1.3. Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập

- Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một khoa học độc lập Trong đó phải kể tới thành tựu của các ngành khoa học có liên quan như: thuyết tiến hoá của S. Đácuyn [1809 - 1882] nhà duy vật Anh, thuyết tâm sinh lí học giác quan của Hemhôn [1821 - 1894] người Đức, thuyết tâm - vật lí học của Phécne [1801 - 1887] và Vêbe [1795 - 1878] cả hai đều là người Đức, tâm lý học phát sinh của Gantôn [1822 - 1911] người Anh, và các công trình nghiên cứu về tâm thần học của bác sĩ Sáccô [1875 -1893] người Pháp...

- Thành tựu của chính khoa học tâm lý lúc bấy giờ, cùng với thành tựu của các lĩnh vực khoa học nói trên là điều kiện cần thiết giúp cho tâm lý học đã đến lúc trở thành khoa học độc lập. Đặc biệt trong lịch sử tâm lý học, một sự kiện không thể không nhắc tới là vào năm 1879, nhà tâm lý học Đức Vuntơ [1832 -1920] đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới tại thành phố Laixic. Và một năm sau đó trở thành Viện Tâm lý học đầu tiên của thế giới, xuất bản các tạp chí tâm lý học. Từ vương quốc của chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức chủ quan là đối tượng của tâm lý học và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan, tự quan sát, Vuntơ đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu tâm lý, ý thức một cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc...

- Để góp Phần tấn công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỉ XX các dòng phái tâm lý học khách quan ra đời, đó là: tâm lý học hành vi, tâm lý học Gestalt, phân tâm học. Trong thế kỉ XX còn có những dòng phái tâm lý học khác có vai trò nhất định trong lịch sử phát triển khoa học tâm lý hiện đại như dòng phái tâm lý học nhân văn, tâm lý học nhận thức. Và nhất là sau Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công ở Nga, dòng phái tâm lý học hoạt động do các nhà tâm lý học Xô viết sáng lập đã đem lại những bước ngoặt lịch sử đáng kể trong tâm lý học.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Giáo trình Tâm lý học đại cương
  • Tác giả: Nguyễn Xuân Thức [Chủ biên] - Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Văn Thạc - Trần Quốc Thành - Hoàng Anh - Lê Thị Bừng - Vũ Kim Thanh - Nguyễn Kim Quý - Nguyễn Thị Huệ - Nguyễn Đức Sơn
  • Nguồn: Nhà Xuất bản Đại học Sư Phạm, 2007

Việc xem xét lịch sử là cơ bản đối với bất kỳ khoa học nào, vì bằng cách này nó bắt đầu biết được nguồn gốc của tâm lý học trong thời Trung cổ và cơ sở mà nó được xây dựng là gì, vì vậy nó được chia thành các thời kỳ mà chúng được nhóm lại. một loạt các sự kiện dẫn đến sự phát triển của nhân loại, trong văn bản này, đặc biệt là lịch sử tâm lý học trong thời Trung cổ và những tiến bộ trong tâm lý học từ thế giới Hồi giáo và một trong những người mở đầu vĩ đại nhất của nó là Avicenna, đã dẫn đến những tiến bộ lớn trong thời kỳ Phục hưng.

Lịch sử tâm lý học thời Trung cổ luôn được kể theo quan điểm Châu Âu mà không tính đến những tiến bộ đáng kinh ngạc xảy ra ở phương Đông, cụ thể là trong thế giới Hồi giáo và một trong những tác giả vĩ đại nổi bật là IbnSīnāo ở phương Tây. được gọi là Avicenna và sự phát triển của tâm lý học Hồi giáo, mà nếu nó ảnh hưởng đến phương Tây nhiều hơn, thì thời kỳ này sẽ không phải là một trong số ít những tiến bộ trong lĩnh vực tâm lý và sự trì trệ khoa học của ngành này. Cần phải làm rõ rằng chỉ có giai đoạn Trung cổ cao mới được thảo luận trong đó tâm lý học Hồi giáo và Avicenna đã có tác động lớn đến sự phát triển của mối quan hệ giữa các chức năng của não và các hiện tượng tâm lý.

Trong thế giới Hồi giáo, lịch sử tâm lý học thời Trung cổ đạt được sự phát triển từ khoa trị liệu tự nhiên và dưới định đề của nhà tư tưởng Hy Lạp vĩ đại Aristotle, đặt các hiện tượng tâm lý trong bối cảnh sinh lý với sự trợ giúp của y học, các bác sĩ Hồi giáo đã tập trung nỗ lực của họ để xác định vị trí - một cách mơ hồ - trong não những khía cạnh của trí tuệ được các triết gia như Aristotle gieo trồng. Về điều này, tôi lấy ba khả năng mà nhà triết học Hy Lạp nêu ra, đó là: nhận thức thông thường, trí tưởng tượng và trí nhớ; để tạo ra một danh sách gồm 7 lĩnh vực, được sắp xếp theo thứ tự tăng dần và bắt đầu từ lĩnh vực gần nhất với cơ thể và các giác quan đến lĩnh vực gần nhất với trí tuệ. Bảy khả năng này được bắt nguồn từ các giác quan bên trong và là: ý thức thông thường, trí tưởng tượng có khả năng ghi nhớ, trí tưởng tượng tổng hợp của con người và động vật, Ước tính, Trí nhớ và Hồi ức.

Khoa đầu tiên là thông thường trong đó một người tiếp nhận và nhận thức được thông tin của thế giới; sau đó có trí tưởng tượng cẩn thận, được gắn liền với khoa đầu tiên, vì, ở khoa này, nó là nơi có thể ghi nhớ hoặc khôi phục thông tin của thế giới đã nhận được trong khoa trước. Sau đây là trí tưởng tượng thành phần của con người và động vật, được cho là do việc tạo ra và sử dụng các hình ảnh tinh thần bao gồm các hình ảnh có trong trí tưởng tượng được ghi nhớ và mục đích của chúng là tạo ra các đối tượng tưởng tượng, nhưng điều này chỉ xảy ra với riêng con người, trong khi động vật chỉ có các liên tưởng được đưa ra.

Khoa thứ năm tương ứng với ước tính mà chủ yếu giúp đánh giá lợi ích hoặc tác hại có thể có của các đối tượng khác nhau. Khoa cuối cùng là Trí nhớ và sự hồi tưởng, Đây là nơi các phán đoán hoặc trực giác được đưa ra trong khoa ước lượng được lưu trữ và nhờ đó có thể khôi phục thông tin này về các đối tượng của thế giới, bộ nhớ bao gồm những ý tưởng đơn giản hoặc những ý tưởng chung dựa trên kinh nghiệm. .

Avicenna đặt những khả năng này trong não thất, trí tuệ thông thường và trí tưởng tượng có ghi nhớ nằm ở não thất thứ nhất, tâm thất thứ hai được tạo thành từ trí tưởng tượng tổng hợp của con người và động vật, ở não thất thứ ba, Avicenna đặt khả năng ước lượng và trí nhớ ở tâm thất cuối cùng. Và kí ức.

Sự phát triển của tâm lý học Hồi giáo, mặc dù nó có nhiều sai sót và định đề sai lầm, đã mở ra con đường nghiên cứu các hiện tượng tâm lý dựa trên hoạt động của não bộ chiếm ưu thế trong nghiên cứu tâm lý học ngày nay, vì vậy tâm lý học đã đi theo con đường thời Trung cổ. là nền tảng cho những phát triển sẽ đến trong các giai đoạn sau nhờ sự đóng góp của các tác giả lớn như Avicenna, San Agustín hay Santo Tomás. Cuối cùng, cần phải nhớ lại rằng những tiến bộ xảy ra trong văn hóa phương Đông như những tiến bộ được trình bày trong văn bản này là nền tảng cho lịch sử tâm lý học và cần được ghi nhận nhiều hơn trong ngành.

Tài liệu tham khảo

Leahey, TH [2005]. Lịch sử Tâm lý học: những trào lưu chính trong tư tưởng tâm lý. [Thứ 6. Ed.]. Madrid: Hội trường Prentice.

Tatiana Rojas Hernandez.

Video liên quan

Chủ Đề