Vai trò và vị trí của văn học viết

Sau quá trình đổi mới, sự quan tâm đến những giá trị phong phú của đời sống đã tác động vô cùng mạnh mẽ, đánh thức văn học trở lại với những chức năng, nhiệm vụ và đặc trực riêng. Văn học chính là nghệ thuật ngôn từ, do đó khi văn học đổi mới sẽ kéo theo sự chuyển biến đa dạng trong cấu trúc, các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, các thể loại nhằm phản ánh chân thực nhất nhu cầu của con người, cuộc sống.

Khái niệm về thể loại văn học Việt Nam

Theo đó, chúng ta có thể hiểu đơn giản về khái niệm thể loại văn học chính là phương thức để tái hiện lại đời sống và các thể thức để cấu tạo văn bản. Ví dụ như cùng viết về đề tài là người mẹ trong chiến tranh, nhà thơ Tố Hữu viết về người mẹ ở hậu phương Nam thông qua tâm hồn người lính với bài thơ lục bát trữ tình [bài Bầm ơi]. Còn nhà thơ Nguyễn Thi thì lại về về người mẹ, người vợ [chị Út Tịch] đang cùng chồng, đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc [tác phẩm Người mẹ cầm súng].

Hiện nay, trong văn học Việt Nam có nhiều thể loại khác nhau, mời các bạn cùng tham khảo những thông tin chi tiết về thể loại văn học, các đặc trưng cơ bản của từng thể loại qua phần 2 của bài viết để tìm ra câu trả lời cho các bài tập văn học của bạn.

Văn học dân gian hay còn được biết đến với cái tên khác là văn học khẩu truyền, tức là truyền miệng. Đây là thể loại văn học với những sáng tác truyền miệng của các tầng lớp nhân dân, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển dần qua từng thời kỳ lịch sử đến nay. 

Đặc trưng của văn học dân gian

Văn học dân gian Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau:

- Tính nguyên hợp thể hiện sự hòa lẫn nhiều hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại văn học. Đối với văn học dân gian thì không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà còn là sự kết hợp của rất nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau. Cụ thể các phương tiện này tồn tại dưới 3 dạng là ẩn [tồn tại trong trí nhớ của những tác giả dân gìn], cố định [thể hiện bằng văn tự] và hiện [tồn tại qua diễn xướng].

- Văn học dân gian có tính tập thể bởi đó là những sáng tác của nhân dân nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể này thể hiện chủ yếu thông qua quá trình con người sử dụng các tác phẩm văn học.

- Tính truyền miệng: đây là đặc trưng nổi bật của thể loại văn học dân gian và nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua hình thức là kể chuyện.

- Tính dị bản: cũng bởi văn học dân gian có tính truyền miệng từ đời này sang đời khác nên chắc chắn sẽ có dị bản khi được kể từ người này qua người kia.

Các thể loại trong văn học dân gian

Toàn bộ các đặc trưng trên đều có sự liên kết chặt chẽ, thống nhất với nhau và làm nên những giá trị cốt lõi, cơ bản của văn học dân gian Việt Nam

Trong văn học dân gian thì lại bao gồm nhiều thể loại nhỏ khác như là thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè,…

>> Xem thêm: Câu trần thuật là gì

2.2. Thể loại văn học viết

Thể loại thứ 2 trong hệ thống văn học Việt Nam đó chính là văn học viết. Khác với văn học dân gian, văn học viết từ khi hình thành đã tạo nên một thời kỳ lịch sử oanh liệt, rực rỡ.

Văn học viết dù ra đời muộn hơn [khoảng thế kỷ 10] nhưng vẫn trở thành một bộ phận chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong văn học Việt Nam, có vị trí thống trị nền văn học của dân tộc. Sự phát triển của thể loại văn học viết dựa trên sự ảnh hưởng của các yếu tố truyền thống và quốc tế.

Đặc trưng của văn học viết

Trên thực tế, thể loại văn học viết được xây dựng dựa trên văn hóa và văn học dân gian. Minh chứng rõ nhất đó là ca dao, tục ngữ đều xuất hiện ở các tác phẩm thơ Nôm, truyện Kiều hay Quốc âm thi tập. Các yếu tố cổ tích, thần thoại, truyền thuyết,… cùng thường xuyên có mặt trong các tác phẩm văn học viết.

Do chịu ảnh hưởng lớn và trực tiếp từ văn hóa, văn học Trung Hoa nên phần lớn thời phong kiến Việt Nam, các tác phẩm văn học viết đều được tạo nên bằng chữ Hán, mượn các thể loại văn học Hán như là tiểu thuyết chương hồi, thơ Đường, hịch, cáo,… Không chỉ vậy mà các tác phẩm này còn được viết bằng chữ Nôm như là thơ Nôm theo phong cách Đường luật của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,…

Bên cạnh đó, văn học viết Việt Nam trong giai đoạn chuyển từ văn học cổ điển sang văn học hiện đại còn chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Pháp. Các thể thơ Đường luật đã dần bị phá bỏ trong những sáng tác của nhiều tác giả. Thay vào đó thì người ta thường làm thơ, văn theo thể loại tự do. Hàng loạt các phóng sự, truyện ngắn, tiểu thuyết của các tác giả lớn như là Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng,… đều được viết theo phong cách Tây hóa.

Các thể loại trong văn học viết

Và trong văn học viết Việt Nam cũng có nhiều thể loại được chia thành 2 giai đoạn khác nhau. Cụ thể đối với từng giai đoạn sẽ phát triển những thể loại riêng bao gồm:

- Thời kỳ văn học trung đại [thế kỷ 10 – 19] có các thể loại là trữ tính, tự sự với các tác phẩm được viết chủ yếu bằng chữ Hán, trong diễn đạt thường có nhiều điển tích, điển cố, lối tượng trưng, ước lệ. Các tác phẩm chủ yếu tuân thủ theo thể loại cáo, hịch, tiểu thuyết, thơ Đường,…

- Thời kỳ văn học hiện đại [từ thế kỷ 20 đến nay] gồm các thể loại tự sự, trữ tình, kịch với các sáng tác chủ yếu viết bằng chữ quốc ngữ, lối diễn đạt giàu hình ảnh. Các tác phẩm như là phóng sự, ký sự, truyện ngắn, tùy bút,… hiện đang rất được ưa chuộng.

>> Xem thêm: Dạy tiếng việt cho người nước ngoài

2.3. Thể loại văn học mạng

Một trong những thể loại văn học đang rất được ưa chuộng trong hệ thống văn học Việt Nam hiện nay đó chính là văn học mạng – web fiction. Thể loại này thường xuất hiện trong các giáo trình, luận văn khoa học. Cụ thể thể loại này bao gồm các tác phẩm, luận văn phê bình được xuất bản trên không gian ảo qua mạng Internet.

Thể loại văn học mạng

Theo quá trình phát triển nhanh chóng của làn sóng công nghệ toàn cầu thì dòng văn học này được xếp vào dạng tồn tại độc lập nhưng vẫn có sự tương hỗ với các thể loại lâu đời là văn học dân gian, văn học viết.

Một tác phẩm nổi tiếng ở giai đoạn sơ khai cho văn học mạng chính là bài thơ “Đôi dép” của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Tác phẩm này thường được giới khảo cứu dẫn chứng như một thành công của sức ảnh hưởng đến từ công nghệ thông tin. Đồng thời thì thể loại văn học mạng này cũng được đánh giá là nhân tố quyết định đến việc quảng bá văn học, ngôn ngữ Việt Nam đến các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Hy vọng rằng qua những thông tin được tổng hợp trên đây, bạn đọc đã nắm rõ được các thể loại văn học Việt Nam gồm những gì và giải đáp được những thắc mắc liên quan đến kiến thức giúp cho các bạn tìm được phương pháp làm sao để học giỏi văn trong quá trình học tập cũng như thi cử nhé.

[CẬP NHẬT] Các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt chủ yếu

Có các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt nào phổ biến hiện nay? Cách áp dụng các phương thức, kiểu văn bản như thế nào? Để giải đáp những thắc mắc này, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây nhé.

Các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt

Vai trò của văn học dân gian đối với văn học viết thời Đại ViệtTrong nhiều cuốn sách trước đây viết về văn học dân gian, thường có quan niệm: “Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động”[1]. Các tác giả thường ca ngợi nhân dân lao động là những con người hoàn hảo. Quan niệm như trên về tác giả của văn học dân gian là chưa đầy đủ và chưa thật chính xác.Văn học dân gian do dân chúng sáng tác thưởng thức, lưu truyền. Nội dung của khái niệm dân, dân chúng thay đổi theo thời gian. Trong xã hội quân chủ, dân không chỉ gồm bốn loại [sĩ, nông, công, thương] như giai cấp thống trị quan niệm mà còn bao gồm những người khác như binh lính, những người làm nghề ca hát, các kĩ nữ, v.v… Trong xã hội thuộc địa nửa quân chủ, dân bao gồm nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, dân nghèo thành thị, công chức, trí thức, thợ thuyền, binh lính v.v…Dân chúng là một tập hợp đông đảo, trong đó có kẻ hay người dở, có người thông tuệ và có cả những người chậm hiểu, có cả những người tài khéo bên cạnh một số ít vụng về[2]. Văn học dân gian là một hình thái ý thức xã hội. Nhiều tác giả cho rằng, văn học dân gian ra đời từ thời kì công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại ngày nay[3]. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, chỉ sau khi có nhà nước, mới có hai dòng văn học: văn học dân gian và văn học viết. Trước đó chỉ có văn học cộng đồng. Theo quan niệm này, người Ê Đê, Mơ Nông… không có văn học dân gian vì chưa phát triển đến trình độ tổ chức xã hội có nhà nước. Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc viết: “Trong một xã hội cộng đồng như vậy, văn hoá mang tính cộng đồng và cũng chưa nhiễm tính chính trị - đẳng cấp. Chưa có sự phân biệt giữa cái chính thống, quan phương với cái dân gian, thôn dã. Tất cả chỉ là một. Không có hiện tượng hai bộ phận văn hoá. Tính cộng đồng là đặc điểm bao trùm toàn bộ đời sống của xã hội đó. Khi nói dân gian là mặc nhiên thừa nhận có cái đối lập với nó. Nhưng ở trong những xã hội này, văn hoá nói riêng cũng như xã hội nói chung chưa có sự tách đôi thành hai bộ phận “đối lập” nhau”[4]. Ý kiến trên là đáng chú ý. Tuy nhiên, nếu chia văn học thành ba loại hình [văn học cộng đồng, văn học dân gian, văn học viết] thì chúng ta thấy, xét về phương thức sáng tác, phương thức lưu truyền và tiếp nhận, xét về mặt thi pháp, văn học cộng đồng vẫn rất gần gũi với văn học dân gian. Nếu xét kĩ, văn học cộng đồng có điểm khác so với văn học dân gian [chẳng hạn không có sự tác động qua lại giữa hai dòng văn học khi đã ra đời nhà nước, chữ viết]; nhưng nếu ta đem so sánh nó với văn học viết thì sự khác biệt còn nhiều hơn, sâu sắc hơn và dễ nhận thấy hơn. ở cả văn học cộng đồng và văn học dân gian, dấu ấn cái tôi tác giả, dấu ấn cá tính sáng tạo không có hoặc rất mờ nhạt, phong cách tác giả hầu như không có. ở văn học viết, dấu ấn cá tính sáng tạo, phong cách tác giả lại là một yêu cầu không thể thiếu.Sau khi đất nước Đại Việt giành được độc lập, văn học Đại Việt chia thành hai dòng: dòng văn học dân gian và văn học viết. Theo quy luật chung của nhiều nền văn học trên thế giới, lẽ ra trong các thế kỉ X, XI, XII, XIII, văn học dân gian là nền tảng của văn học viết. Song tình hình nước ta lại không như vậy. Xét về mặt văn tự, thi liệu và các thể văn, dòng văn học viết của quốc gia Đại Việt hình thành trong việc chủ động tiếp thu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc. Hầu hết các nhà sư thời Lý, các văn nhân võ tướng đời Trần đều dùng chữ Hán và các thể văn Trung Quốc để thể hiện những vấn đề trọng đại của quốc gia, để diễn tả những rung động của tâm hồn trước non sông đất nước và cuộc sống đương thời. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Thuyên [đời Trần] đã viết bài văn tế “Đuổi cá sấu” bằng chữ Nôm. Rất tiếc, đến nay không còn văn bản này. Đến thế kỉ XV, Nguyễn Trãi đã sáng tác một khối lượng lớn tác phẩm văn học bằng cả hai thứ văn tự: chữ Hán và chữ Nôm. Con đường đi của dòng văn học viết là càng ngày càng dân tộc hoá về mặt hình thức ngôn từ, càng sử dụng nhiều thi liệu văn học dân gian.Từ thế kỉ XV, trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi vận dụng nhiều câu tục ngữ. ở đây chỉ xin nêu dẫn chứng ở một bài, bài “Bảo kính cảnh giới” số 22. Bài thơ có tám dòng, tác giả sử dụng ba câu tục ngữ. Câu tục ngữ “Ăn uống chạy đến, đánh nhau chạy đi” được ức Trai thể hiện trong hai dòng thơ:Thấy ăn chạy đến thì no dạTrợ đánh bênh nhau ắt phải đòn[5].Hai câu tục ngữ “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, “Miệng ăn núi lở” được gợi đến ở hai dòng thơ:Tay ai thì lại làm nuôi miệngLàm biếng ngồi ăn lở núi non[6]. Sang thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục truyền thống này.Câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm:Gần son thì đỏ, mực thì đenSáng, biết nhờ ơn thuở bóng đè[7].làm chúng ta nhớ đến câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:Ăn ít ấy hơn, hờn ấy thiệtKhôn thì người rái, dại người thươngNhắn bảo bao nhiêu người ở thếChẳng khôn đừng dở, chớ ương ương[8].là tác giả nhớ đến các câu tục ngữ “Ăn hơn, hờn thiệt, đánh tiệt đuổi đi”, “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét”.Câu thơ “Dài ống, tròn bầu, ấy khá chiều”[9] thoát ý từ câu tục ngữ “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”.Câu thứ ba và câu thứ năm của bài thơ dưới đây:ở thế làm chi cười lẫn nhau,Giàu chê khó, khó chê giàu.Người hàng thịt nguýt người hàng cá,Đứa bán bò gièm đứa bán trâu.Bé vú thở than người cả vú,Ít râu inh ỏi kẻ nhiều râu.Mặc trời phú tính yên đòi phận,ở thế làm chi cười lẫn nhau [10].được tác giả sáng tạo từ hai câu tục ngữ: “Hàng thịt nguýt hàng cá”, “Cả vú lấp miệng em”.Khi viết hai câu thơ:Lận thế treo dê mang bán chóLập danh cưỡi hạc lại đeo tiền[11].Trạng Trình đã nhớ đến câu tục ngữ “Treo đầu dê bán thịt chó”.Hai câu thơ:Chân tay gẫm lại ai hơn nữaTranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà[12].làm người đọc nhớ đến câu tục ngữ “Anh em như thể tay chân”.Trong thơ Nguyễn Công Trứ [1770 - 1858] cũng có nhiều thành ngữ, tục ngữ. Về điểm này, chỉ xin nêu một dẫn chứng là bài “Trò đời”:Một lưng một vốc kém chi môCho biết chanh chua khế cũng chuaĐã chắc bữa trưa chừa bữa tốiMà tham con giếc tiếc con rôTrăm điều đổ tội cho nhà oảnNhiều sãi không ai đóng cửa chùaKhó bó cái khôn còn nói khéoDầu ai có quấy vấy nên hồ[13].Trong bài này, có thành ngữ “Một lưng một vốc”, có các câu tục ngữ “Chanh chua thì khế cũng chua”, “Chắc bữa trưa chừa bữa tối”, “Tham con giếc tiếc con rô”, “Trăm tội đổ cho nhà oản”, “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”, “Cái khó bó cái khôn”, “Có quấy mới vấy nên hồ”.Nguyễn Công Trứ nhiều lần sử dụng nguyên vẹn cả một tác phẩm ca dao như là bộ phận cấu thành của tác phẩm trong những bài hát nói.Hát nói còn gọi là ca trù. Nếu coi những bài của Lê Đức Mao [1462-1529] [trong đó có bài “Nghĩ hộ tám giáp làm giải thưởng hát ả đào”] là những báo hiệu của thể loại hát nói thì đến Tản Đà, thể loại này đã tồn tại qua năm thế kỉ. Về kết cấu, mỗi bài hát nói thường có ba đoạn gọi là ba khổ. Hai khổ đầu gồm tám câu [mỗi khổ bốn câu], khổ thứ ba có ba câu. Có bài không có khổ giữa gọi là bài thiếu khổ, còn bài dài hơn ba khổ gọi là bài dôi khổ. Khổ dôi ra là khổ giữa và dài thêm bao nhiêu cũng được. Ngoài ra ở mỗi bài hát nói khi mở đầu có thể thêm một đoạn thơ lục bát gọi là mưỡu đầu, và khi kết thúc cũng có thể thêm hai câu lục bát gọi là mưỡu hậu.Mở đầu bài “Vịnh cảnh Hà Nội”, Nguyễn Công Trứ sử dụng lời ca dao:Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiDẫu không thanh lịch cũng người Trường An.Trong bài “Gánh gạo đưa chồng”, hai dòng ca dao khác cũng được đặt ở vị trí mưỡu đầu:Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.Hiện tượng sử dụng nguyên vẹn tác phẩm ca dao làm bộ phận cấu thành tác phẩm là hiện tượng chưa thấy có ở các nhà thơ trung cận đại trước và sau Nguyễn Công Trứ[14].Khi chọn lời ca dao “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài...”, Nguyễn Công Trứ đã coi hoa nhài là thứ hoa quý, hoa đẹp. Tư tưởng này gặp gỡ quan niệm thẩm mĩ dân gian[15].Không phải ngẫu nhiên khi Nguyễn Công Trứ chọn bài ca dao “Cái cò lặn lội bờ sông...”. Trong thơ ca dân gian, có một số lời mà ở đó con cò là hình ảnh của người nông dân: lam lũ, vất vả, có nhiều đức tính quý bên cạnh những tật xấu. Từ cuộc đời từng trải của mình, Nguyễn Công Trứ thấu hiểu sự vất vả, gian nguy của người lính, nỗi cực nhọc của người vợ lính mà ca dao đã phản ánh. Nguyễn Khuyến [1835 - 1909] sinh trước và mất sau Nguyễn Công Trứ. Yên Đổ đã sử dụng ca dao như những điển cố. Trong bài “Thầy đồ ve gái goá”, ông viết:Bắc cầu, câu cũ không hờ hữngCầm kính, tình xưa những đắng cay[16].Nếu chúng ta không biết hai lời ca dao:+ Muốn sang thì bắc cầu kiềuMuốn con hay chữ thì yêu lấy thầy+ Trách người quân tử vô tìnhCó gương mà để bên mình không soithì sẽ không hiểu và không thấy được cái hay của câu thơ vừa dẫn.Truyện Kiều là tập đại thành, là đỉnh cao nhất của dòng văn học viết thời trung đại. Để có được Truyện Kiều,trước hết phải kể đến thiên tài của Nguyễn Du. Tất nhiên còn có những nguyên nhân khác, trong đó có việc tác giả của nó đã tiếp thu những tinh hoa của thơ ca dân gian. Trong tác phẩm này, có tất cả 79 lần Nguyễn Du đã sử dụng các mã ngôn từ của ca dao. Thí dụ, ca dao có những lời:+ Vì thuyền, vì bến, vì sôngVì hoa nên bận cánh ong đi về.+ Còn non còn nước còn trờiCòn cô bán rượu còn người say sưa.+ Yêu nhau mấy núi cũng trèoMấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.Trong Truyện Kiều cũng có những câu thơ có kiểu dùng từ tương ứng: + Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa[lời Thuý Kiều]+ Còn non còn nước còn dàiCòn về còn nhớ đến người hôm nay[lời Thuý Kiều]+ Rắp mong treo ấn từ quanMấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua[độc thoại của Kim Trọng]Ca dao có các môtíp dùng để mở đầu như: “Đôi ta như...”, “Chiều chiều...”, “Em như...”, “Tiếc thay...”, “Buồn trông...”,... Trong Truyện Kiều cũng có các hình thể ngôn từ này: “Đôi ta chút nghĩa đèo bồng”, “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng”, “Tiếc thay trong giá trắng ngần”, “Tiếc thay một đoá trà mi”, “Buồn trông cửa bể chiều hôm”,...Tác giả Truyện Kiều chỉ vận dụng các mã ngôn từ của ca dao chứ không sử dụng nguyên văn một câu ca dao nào. Với Nguyễn Du, “các mã ngôn từ của ca dao xuất hiện rất tập trung trong ngôn ngữ tác giả [51 lần] và sau nữa là trong ngôn ngữ của một số nhân vật chính diện: Thuý Kiều [21 lần], Thúc Sinh [bốn lần], Thuý Vân [hai lần], Kim Trọng [một lần]. Các nhân vật phản diện không dùng một mã ngôn từ ca dao nào. Như vậy, âm điệu trữ tình của ca dao chỉ phù hợp với các đoạn thơ có nội dung tình cảm và phù hợp với các nhân vật có đời sống tâm hồn trong sáng của Truyện Kiều”[17]. Nếu các nhà thơ [Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du] đã chủ động tiếp thu những tinh hoa của thơ ca dân gian thì các tác giả văn xuôi của dòng văn học viết trung đại cũng đã khai thác một cách có hiệu quả các truyện dân gian. Từ những cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ [thế kỉ XVI], Đoàn Thị Điểm [thế kỉ XVIII] khi viết những tác phẩm truyền kì đã hư cấu chúng thành những câu chuyện hoàn chỉnh vừa có yếu tố lãng mạn, vừa có tính tư tưởng sâu sắc, vừa có giá trị nghệ thuật cao[18]. “Kho tàng truyện kể dân gian không chỉ có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển

Video liên quan

Chủ Đề